Virtual Catholic Library

Monday, July 11, 2011

Thiên Chúa tôn trọng sự tự do và không bắt buộc chúng ta tin nơi Người

Linh Tiến Khải7/10/2011             

{Góp nhặt}
--------------------------------------------------------------------------------

 VATICAN - Như đã biết, từ chiều thứ năm vừa qua Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã bắt đầu đi nghỉ hè tại dinh thự Castel Gandolfo. Trưa Chúa Nhật 10-7-2011 ngài đã đọc Kinh Truyền Tin với 2.000 tín hữu trong sân nhà nghỉ mát. Đức Thánh Cha cám ơn các tín hữu đã đến đọc kinh chung với ngài, Ngài chào dân chúng thành phố Castel Gandolfo thân yêu với lời cầu chúc mọi người một mùa hè tốt lành.

 Đề cập tới bài Phúc Âm của phụng vụ Chúa Nhật Đức Thánh Cha nói: Trong bài Phúc Âm Chúa Nhật hôm nay (Mt 13,1-23) Chúa Giêsu nói với dân chúng dụ ngôn nổi tiếng của người gieo giống. Đây hầu như là một trang ”tự thuật”, bởi vì nó phản ánh chính kinh nghiệm của Chúa Giêsu và việc rao giảng của Người: Chúa tự đồng hóa với người gieo giống, gieo hạt giống Lời Chúa và nhận thấy các hiệu qủa khác nhau có được, tùy theo kiểu tiếp nhận dành cho việc loan báo. Có người lắng nghe Lời Chúa một cách hời hợt mà không tiếp nhận nó; có người tiếp nhận trong lúc đó, nhưng không kiên tâm và mất tất cả; có người bị các lo lắng và các cám dỗ của thế gian lấn át; và có người lắng nghe và tiếp nhận như thửa đất tốt: ở đây Lời Chúa đem lại bông hạt dồi dào.



Nhưng bài Phúc Âm cũng nhấn mạnh trên ”kiểu” rao giảng của Chúa Giêsu, nghĩa là việc dùng các dụ ngôn. Các môn đệ hỏi Người: ”Tại sao Thầy nói với họ bằng dụ ngôn?” (Mt 13,10). Và Chúa Giêsu trả lời bằng cách phân biệt các ông với dân chúng: cho các môn đệ, tức là những người đã quyết định theo Người, Người có thể nói về Nước Thiên Chúa một cách công khai, trái lại cho những người khác Chúa Giêsu loan báo Nước Thiên Chúa bằng các dụ ngôn, để kích thích sự quyết định và việc hoán cải con tim của họ. Thật thế, tự bản chất của chúng, các dụ ngôn đòi hỏi một cố gắng giải thích, kêu gọi trí thông minh cũng như sự tự do. Thánh Gioan Kim Khẩu giải nghĩa rằng: ”Chúa Giêsu đã nói lên các lời này với chủ ý lôi kéo các người nghe đến với Ngài và mời gọi họ bằng cách bảo đảm rằng nếu họ hướng tới Ngài, thì Ngài sẽ chữa họ lành” (Comm. al Vang. di Matt.., 45,1-2).



Và Đức ThánhCha giải thích thêm như sau: Nói cho cùng, ”Dụ ngôn” đích thật của Thiên Chúa là chính Chúa Giêsu và Bản Vị của Người, dấu ẩn trong dấu chỉ của nhân tính, và đồng thời vén mở cho thấy thiên tinh. Trong cách thế đó Thiên Chúa không ép buộc chúng ta tin nơi Ngài, mà lôi kéo chúng ta tới với Ngài với chân lý và lòng lành của Người Con nhập thể của Ngài: thật vậy, tình yêu luôn tôn trọng sự tự do.

Các bạn thân mến, ngày mai chúng ta sẽ mừng lễ thánh Biển Đức, Viện Phụ và Bổn Mạng của Âu châu. Dưới ánh sáng của bài Phúc Âm này, chúng ta hãy nhìn lên thánh nhân như bậc thầy của việc lắng nghe Lời Thiên Chúa, một sự lắng nghe sâu đậm và kiên trì. Chúng ta phải luôn luôn học từ vị Tổ Phụ của phong trào đan tu tây phương biết dành chỗ nhất cho Thiên Chúa, bằng cách dâng lên Ngài các sinh hoạt thường ngày của chúng ta với lời cầu nguyện sáng chiều. Xin Đức Trinh Nữ Maria giúp chúng ta theo gương mẹ, là ”đất tốt”, nơi hạt gống Lời Chúa có thể đem lại nhiều bông hạt.



Tiếp đến Đức Thánh Cha đã đọc kinh Truyền Tin và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.



Sau Kinh Truyền Tin Đức Thánh Cha đã chào tín hữu bằng các thứ tiếng Ý,

Pháp, Anh, Đức, Tây Ban Nha và Ba Lan. Trong tiếng Ý Ngài nhắc cho mọi người biết rằng Chúa Nhật hôm qua là ”Chúa Nhật của Biển”, nghĩa là Ngày tông đồ trong lãnh vực biển khơi. Đức Thánh Cha gửi lời chào tới các linh mục tuyên úy và các thiên nguyên viên hy sinh công sức cho công việc mục vụ cho các người sống về nghề biển, các người đánh cá, và gia đình họ. Ngài đặc biệt cầu nguyện cho các người bị cướp biển bắt cóc, và cầu mong họ được đối xử với sự tôn trọng và lòng nhân đạo. Ngài cũng nhớ tới gia đình và thân nhân của họ, cầu xin cho họ được mạnh mẽ trong đức tin và không đánh mất niềm hy vọng đoàn tụ với các người thân.



Bằng tiếng Pháp ngài đặc biệt chào các ca đoàn nhà thờ Đức Bà Lausanne Thụy Sĩ. Đức Thánh Cha xin các bậc cha mẹ dậy dỗ con cái biết quan sát thiên nhiên, tôn trọng và che chở thiên nhiên như món qùa tuyệt diệu giúp cho chúng ta cảm thấy sự cao cả của Đấng Tạo Hóa.



Chào tín hữu nói tiếng Anh ngài nhắn nhủ họ trong những ngày hè an bình này hãy quyết định sống gần Chúa hơn qua lời cầu nguyện, qua việc tham dự bí tích Thánh Thể và sống bác ái quảng đại.



Đức Thánh Cha khích lệ các tín hữu nói tiếng Đức luôn nhớ rằng ơn cứu rỗi mà Chúa Giêsu Kitô trao ban khiến cho họ có trách nhiệm đối với tha nhân và tát cả những gì Thiên Chúa đã tạo dựng. Và Thiên Chúa muốn chúng ta tự do khỏi lòng ham muốn của cải và các cột buộc giả dối của trần gian này.



Sau khi kết thúc buổi đọc kinh Truyền Tin Đức Thánh Cha đã gặp một phái đoàn quốc tế thân nhân của những người đang bị cươp biển bắt làm con tin.



God always respects human freedom



Castel Gandolfo, Italy, Jul 10, 2011 / 12:54 pm (CNA/EWTN News).- God always respects human freedom and never compels anybody into a relationship with him. That was the message of Pope Benedict XVI in his midday Angelus address July 10.



“God does not force us to believe in Him, but draws us to Himself through the truth and goodness of his incarnate Son. Love, in fact, always respects freedom,” Pope Benedict said from the balcony of his summer residence at Castel Gandolfo, 15 miles southeast of Rome.



The Pope based his conclusion upon the story told by Jesus in today’s Gospel reading: the parable of the sower who plants seed with different degrees of success.



He said that for Jesus the parable was “autobiographical” because “it reflects the experience of Jesus himself and of his preaching” as “different effects are achieved depending on the kind of reception given to the proclamation.”



Pope Benedict then attempted to answer the question subsequently raised by the apostles: why does Jesus speak in parables?



The Pope said that Jesus makes a distinction between the general crowd and the apostles.



“To those who have already decided for him, he can speak openly of the Kingdom of God” while to others he must speak in metaphor “to stimulate precisely the decision, the conversion of heart” as the parables “require effort to interpret, challenging one’s intelligence but also one’s freedom.”



“After all,” said the Pope, “the real ‘Parable’ of God is Jesus himself, his person, under the form of his humanity, hiding and yet revealing the same deity.” In this way “God does not force us to believe in Him, but draws us to himself through the truth and goodness of his incarnate Son.”



The Pope then reminded the pilgrims gathered in the papal courtyard at Castel Gandolfo that tomorrow is the Feast of St. Benedict, Patron of Europe, from whom we can learn “to give God his rightful place, first place.”



After the Angelus address and prayer, Pope Benedict turned his comments to those who earn their living on the seas. July 10 is designated “Sea Sunday” across the Catholic Church. In particular, the Pope assured his prayers “for seafarers who unfortunately find themselves seized by pirates.” Estimates say there are currently around 800 such individuals being held hostage on the seas.

“I hope they are treated with respect and humanity, and pray for their families so that they are strong in faith and do not lose hope that they will soon meet their loved ones.”






Thursday, July 7, 2011

Bài giảng của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI nhân ngày lễ hai thánh Phêrô và Phaolô, 29-06-2011




                   Bài giảng của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI
                                nhân ngày lễ hai thánh Phêrô và Phaolô
Tại Vương cung Thánh đường Thánh Phêrô ngày 29-06-2011
Anh Chị Em thân mến,
“Thầy không gọi các con là tôi tớ, nhưng là bạn hữu” (x. Ga 15,15).
Sáu mươi năm đã qua kể từ ngày tôi được thụ phong linh mục, một lần nữa tôi lại nghe thấy từ sâu thẳm lòng mình những lời Chúa Giêsu nói cùng anh em tân linh mục chúng tôi vào cuối buổi lễ truyền chức do Đức hồng y Tổng giám mục Faulhaber chủ sự, qua giọng nói hơi yếu ớt nhưng quả quyết của ngài. Theo cử hành phụng vụ thời ấy, Đức giám mục đọc lời ban năng quyền giải tội cho các tân chức: “Không còn là tôi tớ nữa, nhưng là bạn hữu”: ngay lúc bấy giờ tôi đã hiểu rõ những lời này không chỉ là nghi thức, không đơn giản chỉ là nhắc lại một câu Sách Thánh. Tôi biết, vào đúng lúc ấy, chính Chúa đã nói với tôi một cách rất riêng tư. Trong bí tích Rửa Tội và bí tích Thêm Sức, Người đã đưa chúng ta lại kề bên Người, Người đã đón nhận chúng ta vào gia đình của Thiên Chúa. Nhưng điều đang diễn ra lúc này lại còn lớn lao hơn nữa. Chúa gọi tôi là bạn của Người. Chúa đón nhận tôi vào nhóm những người Chúa đã đặc biệt hiểu rõ, do đó cũng được nhận biết Chúa một cách rất đặc biệt. Chúa ban cho tôi một khảnăng đáng sợ là thực thi điều mà chỉ một mình Người, Con của Thiên Chúa, mới có thể nói và làm một cách chính đáng: Ta tha tội cho con. Chúa muốn tôi – bằng quyền năng của Người – có thể nhân danh Chúa mà nói, (“Tôi” tha tội), đó không chỉ là lời nói, mà còn là một hành động, đang làm biến đổi thực tại ở mức sâu xa nhất, tôi biết đàng sau những lời đó là cả cuộc khổ nạn Chúa đã chịu cho chúng ta và vì chúng ta. Tôi biết cái giá của tha thứ: khi chịu khổ nạn, Chúa đã đi xuống tận vực sâu tăm tối gớm ghiếc các tội lỗi của chúng ta. Người phải đi vào bóngđêm của tội lỗi chúng ta, chỉ nhờ thế mà tình trạng tăm tối ấy mới được biếnđổi. Và bằng cách ban cho tôi quyền tha tội, Chúa để cho tôi nhìn xuống vực thẳm của con người, nhìn vào nỗi đau đớn vô hạn Chúa phải chịu vì loài người chúng ta, và điều này khiến cho tôi nhận ra tình yêu vô hạn của Người. Người tin cậy tôi: “Không còn là tôi tớ nữa, nhưng là bạn hữu”. Người uỷ thác cho tôi những lời truyền phép trong bí tích Thánh Thể. Người uỷ nhiệm tôi công bố lời Người, giải thích đúng lời Người và mang lời ấy đến cho mọi người hôm nay. Người ký thác chính bản thân Người cho tôi. “Các con không còn là tôi tớ, nhưng là bạn hữu”: Những lời này mang lại niềm vui nội tâm lớn lao, nhưng đồng thời, cũngđáng kinh sợ đến nỗi ta có thể cảm thấy sợ hãi khi đã trải qua mấy chục năm cảm nhận được sự yếu đuối của con người chúng ta và lòng nhân hậu vô biên của Chúa.
“Không còn là tôi tớ nữa, nhưng là bạn hữu”: lời này tựthân chứa đựng trọn cả một chương trình cho một đời linh mục. Tình bạn là gì? Idem velle, idem nolle – muốn những điều giống nhau, ghét những điều giống nhau: đó là cách diễn tả tình bạn thời cổxưa. Tình bạn là một sự hiệp thông trong tư duy và trong ý muốn. Chúa cũng nói chínhđiều đó cho chúng ta cách rõ ràng hơn hết: “Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi” (Ga 10,14). Vị Mục Tử gọi tên từng con chiên của mình (x. Ga 10,3). Người biết tên tôi. Tôi không phải là một hiện hữu vô danh trong vũ trụ vô cùng. Người đích thân biết tôi. Tôi có biết Người không? Tình bạn mà Người đoái ban cho tôi chỉ có thể có nghĩa rằng chính tôi cũng ra sức hiểu biết Người nhiều hơn; rằng trong Kinh Thánh, trong các Bí Tích, trong kinh nguyện, trong sự hiệp thông với các thánh, trong những ai đến với tôi, do Chúa gửi đến, tôi ra sức ngày một nhận biết Người hơn nữa. Tình bạn không chỉ là biết về một con người, nhưng trên hết, là sự thông hiệp của ý chí. Nghĩa là ý muốn của tôi càng ngày càng tương hợp với thánh ý Chúa. Vì thánh ý Chúa không phải điều gì ở bên ngoài và xa lạvới tôi, điều mà hầu như tôi muốn phục tùng hay từ khước cũng được. Không, trong tình bạn, ý muốn của tôi nên một với thánh ý Chúa, và thánh ý Chúa trởnên ý muốn của tôi: đây chính là cách tôi thực sự trở nên chính mình. Vượt lên và trên cả sự thông hiệp tư duy và ý muốn, Chúa còn nhắc đến yếu tố thông hiệp thứba: Chúa hiến mạng sống mình cho chúng ta (x. Ga 15, 13; 10, 15). Lạy Chúa, xin giúp con hiểu biết Chúa ngày một hơn. Xin giúp con nên một với thánh ý Chúa ngày một hơn. Xin hãy giúp con sống cuộc đời con không phải cho bản thân con, nhưng trong sự hiệp nhất với Chúa để sống cuộc đời con cho tha nhân. Xin hãy giúp con trở nên bạn của Chúa ngày một hơn.
Lời của Chúa Giêsu về tình bằng hữu cần phải được nhìn trong bối cảnh của diễn từ về cây nho. Chúa liên kết hình ảnh cây nho với nhiệm vụ được trao cho các môn đệ: “Thầy cắt cử anh em để anh em ra đi sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại” (Ga 15,16). Nhiệm vụ đầu tiên cho các môn đệ – cho bạn hữu Người – là ra đi, bước ra khỏi bản thân và đi tới tha nhân. Ở đây chúng ta nghe vang vọng những lời của Chúa Phục sinh nói với các môn đệ ở cuối Tin Mừng theo Thánh Matthêô: “Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ…” (x. Mt 28,19tt). Chúa đòi chúng ta ra khỏi lằn ranh thế giới của riêng mình và đem Tin Mừng đến cho tha nhân, để cho Tin Mừng được loan đi khắp nơi và từ đây thế giớiđược mở ra cho Nước Thiên Chúa. Chúng ta được nhắc bảo rằng Thiên Chúa còn bước ra khỏi địa vị của Người, gạt bỏ vinh quang của mình để đi tìm chúng ta, mang lại cho chúng ta ánh sáng và tình yêu của Người. Chúng ta muốn theo bước Thiên Chúa là Đấng đi theo đường lối này, chúng ta muốn rời bỏ sức ì của thói lấy mình làm trung tâm, để Chúa có thể bước vào thế giới chúng ta.
Sau lệnh truyền lên đường, Chúa Giêsu nói tiếp: sinh hoa trái thì hoa trái còn tồn tại. Chúa mong đợi hoa trái nào nơi chúng ta? Hoa trái tồn tại là hoa trái nào? Giờ đây, hoa trái của cây nho là quả nho và chính từ quả nho mà rượu nho được làm ra. Chúng ta cùng suy nghĩ một chút về hình ảnh này. Để trái nho được chín tốt, cần có nắng, nhưng cũng cần có mưa nữa, cả ngày lẫn đêm. Để cho nho quý thành rượu, các quả nho cần phải được ép, cần phải kiên nhẫn chờ nước nho ép lên men, cần có sự chăm sóc cẩn thận để giúp cho quy trình hóa rượu. Rượu nho quý được đánh giá không chỉ bởi độ ngọt, nhưng còn bởi những vị phong phú và tinh tế, hương thơm đa dạng sinh ra trong quá trình chín muồi và lên men. Đó chẳng phải là hình ảnh của nhân sinh, và đặc biệt là của đời sống linh mục chúng ta sao? Chúng ta cần cả nắng lẫn mưa, cả lúc hân hoan cũng như khi gặp nghịch cảnh, cả khi chịu thanh luyện và thử thách cũng như lúc vui mừng được đồng hành với Tin Mừng. Khi suy nghĩ lại, chúng ta có thể tạ ơn Chúa về cả hai đàng: về những thử thách và những niềm vui, về những lúc u tối và những ngày tươi sáng. Cả hai đàng, chúng ta đều có thể nhận biết được sự hiện diện bền vững của tình yêu Thiên Chúa không ngừng nâng đỡ và bảo vệ chúng ta.
Tuy nhiên bây giờ chúng ta phải đặt câu hỏi: Chúa mong chờthứ hoa trái nào nơi chúng ta? Rượu nho là hình ảnh của tình yêu: đó là hoa trái đích thực và tồn tại, thứ hoa trái mà Thiên Chúa mong muốn nơi chúng ta. Nhưng đừng quên trong Cựu Ước, thứ rượu nho được mong chờ từ trái nho quý, hơn tất cả, là hình ảnh về sự công chính, phát xuất từ một đời sống tuân giữ luật Chúa. Đó là điều không được bãi bỏ vì cho rằng nhãn quan Cựu ước đã lỗi thời –không, điều này vẫn còn đúng. Nội dung đích thực và gồm tóm mọi Lề luật vẫn là lòng mến Chúa và yêu thương tha nhân. Nhưng tình yêu song đôi này không chỉ là ngọt ngào, mà còn mang trong mình của cải quý giá là lòng kiên nhẫn, sự khiêm hạ và được lớn lên khi biết bỏ ý riêng mình mà sống theo thánh ý Thiên Chúa, theo ý củaĐức Giêsu, người bạn của chúng ta mong muốn. Chỉ bằng cung cách này, khi toàn thể con người chúng ta mang lấy những phẩm tính của sự thật và sự chính trực, thì tình yêu mới trở nên chân thực, chỉ khi đó mới là trái chín. Trung thành vớiĐức Kitô và Hội Thánh của Người là đòi hỏi nội tại phải thực thi và điều đó luôn bao gồm đau khổ. Đây chính là cách mà niềm vui đích thực được lớn lên. Ở mức độsâu xa, bản chất của tình yêu, của hoa trái đích thực, tương hợp với ý niệm lênđường, tiến bước: nghĩa là quên mình, tự hiến, nơi bản thân điều đó đã mang dấu chỉ thập giá. Về điểm này, Đức Grêgôriô Cả đã từng nói: nếu bạn đang gắng sức đến với Chúa, hãy cẩn thận đừng đến với Người duy một mình bạn mà thôi – một câu châm ngôn mà linh mục chúng ta cần ghi nhớ mỗi ngày (H Ev 1:6:6 PL 76, 1097tt).
Các bạn thân mến, có lẽ tôi đã dừng lại quá lâu với những suy niệm nội tâm của mình về sáu mươi năm thừa tác vụ linh mục. Bây giờ đến lúc chúng ta lưu tâm đến phận sự đặc biệt phải thực hiện ngày nay.
Trong ngày lễ mừng hai Thánh Phêrô và Phaolô, lời cầu chúc thân ái nhất của tôi trước tiên xin dành cho Đức Thượng phụ Bartholomaios I và Phái đoàn ngài đã cử đến, là những người tôi muốn bày tỏ lời cám ơn chân thành về chuyến viếng thăm được hoan nghênh nhất của các ngài nhân dịp phúc lộc này là lễ các Thánh Tông đồ Bổn mạng của Rôma. Tôi cũng xin chúc mừng quý Đức Hồng y, Giám mục hiền đệ của tôi, quý vị đại sứ và quý giới chức dân sự, cũng như quý linh mục và quý linh mục đồng khóa, quý tu sĩ và giáo dân. Tôi xin cám ơn tất cả quý vị về sựhiện diện của quý vị và những kinh nguyện của quý vị.
Quý Đức Tổng giám mục trưởng giáo tỉnh được bổ nhiệm kể từlễ kính hai Thánh Tông Đồ năm ngoái, bây giờ sẽ nhận lãnh dây Pallium. Điều này có ý nghĩa gì? Trước hết có ý nhắc nhở chúng ta về ách êm ái Chúa Giêsu trao cho chúng ta (x. Mt 11, 29tt). Ách của Chúa Giêsu cũng chính là tình bạn của Người. Đó là ách của tình bạn và dođó là “ách ngọt ngào”, nhưng như thế cũng chính là ách đòi phải nỗ lực, cái ách tôi luyện con người chúng ta. Cái ách của thánh ý Chúa, vốn là ý muốn của chân lý và tình yêu. Đối với chúng ta, trước hết và trên hết, đó là ách dẫn đưa người khác tới tình bạn hữu với Đức Kitô và sẵn sàng phục vụ tha nhân, chăm sóc họ nhưnhững mục tử. Dây Pallium còn gợi cho chúng ta ý nghĩa: dây được dệt bằng len của những con chiên được ban phép lành vào ngày lễ kính Thánh Anê. Như vậy dây Pallium nhắc nhở chúng ta về một Đấng Mục tử, vì yêu chúng ta, đã tự mình trởthành một Chiên Con. Dây Pallium nhắc nhở chúng ta về Đức Kitô, Đấng đã lênđường băng qua núi non và hoang mạc, nơi có con chiên là nhân loại bị lạc lối. Dây Pallium còn nhắc chúng ta về Đấng đã vác chiên con – nhân loại – tôi - lên vai của mình, để mang tôi về nhà. Như vậy dây Pallium nhắc nhở, cả chúng ta nữa, là những mục tử đang đảm nhận sứ vụ của Chúa, cũng phải mang tha nhân theo với chúng ta, vác họ trên vai và đưa về cho Chúa Kitô. Dây Pallium nhắc chúng ta rằng chúng ta được gọi làm mục tử coi sóc bày chiên của Chúa, bày chiên vốn luôn mãi là của Chúa chứ không trở thành bày chiên của chúng ta. Sau cùng, Pallium cũng có nghĩa một cách cụ thể là sự thông hiệp của các mục tử trong Hội Thánh với Phêrô và với các vị kế tục ngài – có nghĩa là chúng ta phải là những mục tửcho sự hiệp nhất và trong sự hiệp nhất, và chỉ trong sự hiệp nhất do Phêrô đại diện mà chúng ta thực sự dẫn đưa mọi người về với Đức Kitô.
Các bạn thân mến, có lẽ tôi đã nói quá dài về sáu mươi năm sứ vụ linh mục. Nhưng vào lúc này tôi cảm thấy được nhắc bảo phải nhìn lại những gì đã ghi dấu ấn trong sáu thập niên vừa qua. Tôi cảm thấy được nhắc bảo phải nói với anh em, với tất cả các linh mục, giám mục và với các giáo hữu của Hội Thánh, lời của hy vọng và khích lệ; lời đã chín muồi trong trải nghiệm lâu dài nhận biết Thiên Chúa là Đấng tốt lành nhường nào. Tuy nhiên, trên hết mọi sự, đây là thời gian để cảm tạ tri ân: cảm tạ Chúa vì tình bằng hữu Người đã ban cho tôi và Người mong ước ban cho tất cả chúng ta. Cảm tạ tất cả những aiđã huấn luyện và đồng hành với tôi. Và tất cả những điều đó được gồm tóm trong lời nguyện xin một ngày kia Chúa sẽ đón nhận chúng ta trong sự thiện hảo của Người và mời chúng ta chiêm ngưỡng niềm vui của Người. Amen.

Antôn U.Đ.B. chuyển ngữ từ bản tiếng Anh

Monday, July 4, 2011

Linh Mục Người Là Ai?

Hai Mặt Của Một Cuộc Đời Linh Mục
Thoáng nhìn vào cuộc sống của Linh mục, ai ai cũng cảm thấy đời sống đó thật đơn giản, thoải mái, dễ chịu và sung túc về mọi mặt. Nhưng nhìn kỹ và đi sâu vào cuộc sống của Linh mục, chúng ta mới thấy rõ được những ngổn ngang, phức tạp, những trăn trở, giằng co, và những nhức nhối, khó khăn về nhiều mặt cả Đạo lẫn Đời.
Con người Linh mục chắc hẳn không phải là thần thánh, là thiêng liêng, mà thật sự là một con người như muôn người khác đang sống giữa dòng đời - phải bôn ba, va chạm và giao tiếp với mọi hạng người. Có những người hiểu và thông cảm, nhưng cũng có nhiều kẻ không hiểu và chẳng muốn cảm thông gì cả !
Chính vì Linh mục là “con người”, nên cũng mang thân phận của con người với một thân xác nặng nề, yếu hèn, dễ vấp ngã như mọi người, và cũng có hỉ - nộ - ái - ố và tham - sân - si… không thể nào khác hơn “ông bà nguyên tổ, A-đam - E-và trong vườn Địa Đàng, mặc dù đã được Thiên Chúa ưu đãi đó”. Đặc biệt là những cám dỗ thật hấp dẫn của thời đại về: Tiền - Tài - Tình, từ đó phá hủy con người chúng ta ra tro bụi cách dễ dàng !
Mặt khác, Linh mục là con người nhưng mà phải làm những việc thần thiêng “Một Kitô khác” (Alter Christus), để đem thế giới loài người phàm trần tạm bợ này về với Thế Giới Thiên Đường vĩnh cửu mà Thiên Chúa Ba Ngôi cực Thánh đang chờ đón những thành quả của các ngài.
Về mặt con người
Linh mục có một cuộc sống độc thân : nên phải tự chăm lo mọi sự trong ngoài cho đời sống của mình, để có đủ điều kiện sức khoẻ thân thể cũng như tinh thần minh mẫn mà hoạt động cho Cộng đoàn Giáo hữu luôn được tốt đẹp. Và chính đời sống độc thân đó mới tích cực giúp Linh mục gặt hái được những thành quả cách mỹ mãn, công bằng và không bị chi phối bởi bất cứ ai hay điều gì ràng buộc cả ! Và cũng chính đời sống độc thân này giúp cho Linh mục không phải lo lắng, ưu tư gì về cuộc sống vật chất hiện tại hay tương lai sẽ ra sao !
Một mình chẳng nghĩ chẳng lo,
Đặt mình là ngáy kho kho ngủ liền.
Tâm tư chẳng nghĩ gì tiền,
Tương lai, hiện tại chẳng phiền vào thân !

Và từ đời sống độc thân đó, Linh mục là của mọi người, không thuộc về bất cứ ai hết, và cũng chẳng là của phe nhóm nào cả !
Nếu ý thức được như thế, mọi người chúng ta sẽ tích cực giúp các Linh mục có một đời sống thật trong sáng, thoải mái, vui tươi và hạnh phúc trong Tình Yêu duy nhất của Thiên Chúa, để từ đó các ngài chiếu giãi Thiên Chúa Tình Yêu đến cho mọi người bằng chính “đời sống gương sáng” là Chứng nhân đích thực của Chúa Kitô giữa trần gian.
Quả thật, Xây Dựng thì khó, mà phá đổ thì quá dễ ! vì thế, tuỳ khả năng và thời giờ mà mỗi người giáo hữu chúng ta phải tiếp tay, cộng tác, đóng góp và giúp sức với Linh mục, để cùng xây dựng một Giáo Hội tươi sáng, thánh thiện và bác ái ngay ở trần gian này.
Đó là cách truyền giáo hữu hiệu nhất và là dấu hiệu mọi người nhận biết tất cả chúng ta là Môn đệ của Chúa Kitô : vì “Các con yêu thương nhau” (Jn.13,35;15,9-17), nên sẵn sàng chia sẻ và giúp đỡ lẫn nhau trong mọi việc cho vinh Danh Chúa.
Còn về mặt thần thiêng
Thánh chức, Linh mục là vị Đại Diện của Thiên Chúa trên trần gian, để ban phát các Ơn thánh qua Bảy Bí tích và các Á Bí tích nữa, hầu cho con người được sự trợ lực linh thiêng mà vượt thắng mọi gian tà thế tục.
Và cũng là người hướng dẫn tinh thần, để mọi người sống đúng Lời Chúa mà giáo Hội “vị Hiền Thê của Chúa Kitô” mới am tường và chỉ dạy cách trung thực cho tất cả chúng ta được hiểu biết rõ ràng và đem ra thực hành trong cuộc sống và hoàn cảnh cụ thể của riêng mỗi người.
Chính đây là mặt tích cực, luôn luôn lôi kéo Linh mục tiến lên và vượt thẳng đến mức độ toàn thiện, như Chúa Giêsu Kitô đã khẳng định : “các con hãy nên trọn lành, như Cha các con trên Trời là Đấng trọn lành” (Mt.5,48).
Nếu các Linh mục luôn hăng hái vun tưới và ươm trồng cây thánh thiện này mỗi ngày một mạnh mẽ hơn, thì chắc chắn Ơn Thánh của Chúa được tràn ngập nơi các ngài, và từ đó tưới gội trên toàn thể mọi người chung quanh qua việc gặp gỡ, giao tế, trò chuyện và bàn hỏi cách thiết thực, làm cho cuộc sống tạm bợ này được biến đổi thành một Hạnh Phúc vĩnh cửu ngay từ tại thế.
Còn nếu Linh mục quên đi cái mặt tích cực này, thì thật là một thảm họa cho mọi người mọi nơi, không hưởng được Ơn Thánh dồi dào và không thể có một Hạnh Phúc chân thật nơi trần gian này. Và từ đó, sinh ra nhiều giống tội, và làm thiệt hại cho Giáo Hội là Mẹ của chúng ta, không thể sinh hoa kết trái thánh thiện được nơi dương thế này, và như vậy làm sao chúng ta có thể mai sau cùng hưởng Hạnh Phúc bất diệt tuyệt vời trên Nước Trời được !!!
Nếu mọi người chúng ta đều hiểu rõ Hai khía cạnh của Một cuộc đời Linh mục như thế, thì chắc chắn chúng ta phải cùng nhau tích cực hỗ trợ, giúp sức , và góp phần cải thiện cho các Linh mục mỗi ngày một hoàn hảo, thánh thiện, sáng ngời và tươi đẹp hơn, bằng những hành động cụ thể :
- Cùng Linh mục, chúng ta tích cực góp phần mình để xây dựng mọi mặt của Giáo Hội được tốt đẹp hơn.
- Cùng Linh mục, chúng ta luôn luôn chia sẻ mọi gánh nặng, mọi công việc cả Đạo lẫn Đời mỗi ngày cho được hoàn thành cách mỹ mãn như ý Chúa muốn nơi chúng ta.
- Ý thức Linh mục có chức thánh, chúng ta phải tỏ lòng kính trọng và giúp các ngài hoàn thành chức vụ mỗi ngày một thêm thánh thiện hơn.
- Ý thức Linh mục cũng là con người yếu hèn như chúng ta, nên chúng ta phải giúp các ngài xa tránh mọi dịp : “nhàn cư vi bất thiện” - “ăn chơi cách phàm tục quá độ” (kiểu Tứ đổ tường), và đặc biệt đừng làm cớ vấp phạm cho các ngài, nhất là nữ giới.Vậy các giáo dân nữ nên ăn mặc kín đáo hơn, không nên phơi bày quá đáng những nét đẹp của mình trước mặt các vị tu hành, cũng như hạn chế mọi giao tiếp không cần thiết, vô bổ, và những cử chỉ thân mật với các ngài. Chúng ta tin rằng việc làm này sẽ có ảnh hưởng rất tích cực trong việc giúp các ngài đi trọn quãng đường dâng hiến cho Chúa. Đó cũng là một việc hi sinh lớn lao giúp các Linh mục được luôn sống thánh thiện. Và chúng ta chắc rằng sự hi sinh đó sẽ được thánh Phêrô ghi công để rồi ngài sẽ mở cửa Thiên Đàng đón mừng các thánh nữ sau này.
- Trong tinh thần anh em của Chúa Kitô, chúng ta sẵn sàng đóng góp ý kiến xây dựng chân tình,cụ thể và đầy thánh thiện, để mọi thành phần Dân Chúa được trở nên hoàn thiện.
Ước gì Cuộc đời Linh mục sống giữa trần gian, nhưng không bị biến dạng, đổi thay vì thời gian, và cũng không bị nhuốm mùi đời mà trái lại thêm “Hương” cho đời, giống như BÔNG HOA SEN ở giữa đầm lầy :
Trong đầm gì đẹp bằng Sen,
Lá xanh bông trắng lại chen nhụy vàng.
Nhụy vàng bông trắng lá xanh,
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.

Mặc dầu, Linh mục là con người, nhưng được mang sứ mệnh của Chúa Kitô, nên phải hoàn tất con đường Thập Giá của Chúa Kitô đến cùng, và mang lại Ơn Cứu Rỗi cho muôn dân nữa:
Đã mang thân kiếp con người,
Ốm đau, yếu đuối, biếng lười thường xuyên.
Ân cần giúp đỡ lời khuyên,
Chớ nên ăn nói huyên thuyên hại đời.
Linh mục là của mọi người,
Chúa Trời ban tặng cho đời thêm Ơn :
An bình, Hạnh Phúc đẹp hơn,
Thiên Đàng sum họp cô đơn không còn !
Hy vọng đôi dòng suy tư cùng chia sẻ với mọi người về Cuộc đời Linh mục có Hai mặt phải trái nói trên, sẽ giúp mọi người chúng ta ý thức hơn và đóng góp thêm những kinh nghiệm cụ thể, để cuộc sống Linh mục mỗi ngày được thêm phong phú và tuyệt vời hơn.

Saturday, July 2, 2011

Bài Chia Sẻ CN 14 A Thường Niên.

Chúa Cha và người Con (Lc 10: 21 -22 )

25 Vào lúc ấy, Đức Giê-su cất tiếng nói: "Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn.26 Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha.27 "Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho.28 "Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng.29 Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng.30 Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng."

Bài Phúc Âm của Chúa Nhật thứ 14 thường niêm năm A hôm nay nhắc nhở chúng ta về hai  nhân đức rất quan trọng trong đời sống xã hội ngày nay đó là: Hiền lành- khiêm nhường. Tại sao tôi lại nói chúng là 2 nhân đức quan trọng, xin mời bạn chúng ta cùng nhau tìm hiểu:
1.     Hiền lành:
Trong tập "Những ngụ ngôn của Ê-xốp"có một câu chuyện ngụ ngôn kể về cuộc tranh cãi giữa Mặt Trời và Gió. Hai nguồn năng lượng này cãi nhau xem ai mạnh hơn ai. Hôm đó, có một người mặc áo choàng đi trên con đường vắng. Mặt trời nói với gió: Ai làm cho người ấy cởi bỏ chiếc áo choàng mau hơn thì sẽ thắng cuộc. Gió đồng ý và ra tay trước. Gió càng thổi thì người kia lại càng giữ chặt lấy chiếc áo. Cuối cùng gió kiệt sức và đành chịu thua. Lúc đó mặt trời mới ra tay. Bác ta toả xuống những tia nắng khiến người kia cảm thấy nóng bức. Và chỉ trong giây lát người ấy phải cởi áo ra.

Tác giả (E-xốp) của câu chuyện trên đã bàn luận như sau: Bạn có thể thành công hay thất bại đều nhờ  vào sự hiền lành dễ thương hơn là nhờ bạo lực.
Trong Kinh Thánh Cựu - Tân Ước đã phác họa lên những ý nghĩa khác nhau về nhân đức Hiền Lành như:

Thánh Vịnh. 35 - 20 Viết: “Vì chúng chẳng nói đến hoà bình, lại vu cáo những kẻ hiền lành trong xứ sở.” Huấn Ca.10 -14: Đức Chúa hạ bệ những ai quyền thế, và đặt kẻ hiền lành ngồi lên thay. Giêrêmia .11 -19 Phần con, con khác nào con chiên hiền lành bị đem đi làm thịt, con đâu biết chúng đang mưu tính hại con. Chúng bảo nhau: "Cây đương sức, nào ta chặt nó đi, loại nó ra khỏi đất dành cho kẻ sống, để không còn ai nhớ đến tên tuổi nó nữa! "
Mát-thêu. 5 – 4 Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp. Thư Êphêsô. 4 -2 Anh em hãy ăn ở thật khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại; hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau.

Trong xã hội thì sao?  mỗi người được sinh ra trên thế gian này đều được kêu gọi để sống cho nhau và sống cho người khác và sẵn sang hy sinh tính mạnh của mình vì tha nhân nếu cần thiết. Hơn nữa, không ai có thể đấm ngực tự đại rằng: Tôi không cần đến bạn, hay bất cứ ai trong đời tôi…và vì vậy họ có thể tự cho mình một cái quyền vượt trên người khác và sống cách ly và sa cách người khác. Nhưng họ đâu biết rằng rồi cũng có lúc họ cần đến bạn bè hay ngừơi thân…Chính Chúa Giêsu trong xứ mệnh rao giảng của Ngài trong suốt 3 năm cho người Do Thái cũng đã không ngừng kêu gọi họ hãy sống hiền lành và khiêm nhường trong lòng hơn nữa Ngài còn nói: hãy yêu thương nhau như chính Thầy đã yêu thương anh em, để mọi người nhận biết anh em là môn đệ của Thầy. Trên bao giờ hết trong xã hội hiện nay sự hiền lành sẽ là rất cần để tạo cho gia đình và xã hội một bầu khí hòa thuận và êm ấm, yêu thương và đầy tình anh em.
Thử hỏi trong mỗi cặp vợ chồng rằng trong suốt cuộc đời sống chung với nhau đã không từng có những lời lẽ nặng nhẹ hay dơ cẳng chân hạ khủy tay với nhau? Tôi tin rằng không có, mà giả sử có đi nữa thì cũng rất hiếm. Chính sự nhân đức hịền lành sẽ bắc được một nhịp cầu cảm thông và trên hết sẽ tạo được những mối liên hệ mật thiết và tốt đẹp trong cuộc sống vợ chồng với nhau, bởi vì:

“Chồng giận thì vợ bớt lời,
Cơm sôi nhỏ lửa, chẳng đời nào khê.”

“Già néo thì đứt giây.”

“Bên thẳng thì bên phải chùng,
Cả hai đều thẳng, thì cùng đứt dây.”

Kinh nghiệm về cuộc sống của mỗi chúng ta và nội dung của câu truyện ở trên đã một phần phác họa lên hai hình ảnh của Gió và Mặt Trời. Gió đã nóng giận muốn giành lấy thắng cho riêng mình và đã ra tay trước, nhưng sự nóng giận của Gió đã làm cho đối phương của mình càng chủ động về phân mình và luôn giữ chặt lấy áo của mình nơi anh. Và như một kết quả là Gió đã nản chí và thua cuộc. Con Mặt Trời thì? anh điềm tĩnh và thực hiện những điều mình toan tính và suy nghĩ đúng đắn rồi mới đi đến quyết định… và như một kết quả tất yếu chỉ trong giây lát Mặt trời đã thu phục được người đối phương của mình. Bởi đó, người đời thường bảo: “Giận quá thì mất khôn.” Do vậy, chúng ta cùng cầu xin Chúa sẽ luôn luôn tuôn đổ xuống trên mỗi người trong chúng ta những ơn lành cần thiết. Để chính những ơn lành đó sẽ là lợi khí giúp chúng ta chiến thắng trong cuộc sống nơi gia đình và xã hội.
Tác giả: Trần Châu Đông

Friday, June 10, 2011

Chúa Thánh Thần, đấng ban sự sống: 12/06/2011

Trong kho tàng văn chương Ấn giáo có ghi lại câu chuyện như sau: Có một đệ tử đến thưa với vị linh đạo của mình: "Thưa thầy, con muốn gặp Chúa". Vị linh đạo chỉ đáp trả bằng một cái mỉm cười thinh lặng.
Ngày hôm sau, người môn sinh trở lại và bày tỏ cũng một ước muốn. Vị linh đạo vẫn mỉm cười tiếp tục giữ sự im lặng cố hữu của ông. Một ngày đẹp trời nọ, ông đưa người thanh niên đến một dòng sông. Thầy trò cùng trầm mình xuống nước. Chờ cho người đệ tử cảm thấy hoàn toàn thoải mái trong dòng nước mát, bất thần vị linh đạo túm lấy anh và dìm xuống nước hồi lâu. Người thanh niên cố gắng vùng vẫy đế trồi lên mặt nước. Lúc bấy giờ vị linh đạo mới hỏi anh: "Khi bị dìm xuống nước như thế, con cảm thấy cần điều gì nhất?". Không một chút suy nghĩ, người đệ tử đáp: "Thưa thầy, con cần có không khí để thở".
Lúc bấy giờ vị linh đạo mới dẫn giải: "Con cảm thấy cần gặp Chúa như con cần khí thở không? Nếu con cảm thấy cần như thế, con sẽ gặp được Ngài tức khắc. Ngược lại, nếu con không hề cảm thấy cần như thế thì cho dù con có vận dụng tất cả tài trí và cố gắng, con cũng sẽ không bao giờ gặp được Ngài".
Anh chị em thân mến,
Sự sống của chúng ta là do Thiên Chúa ban tặng. Chính nhờ tham dự vào sự sống vĩnh cửu nơi Thiên Chúa mà chúng ta  có được sự sống. Hơi thở là sự sống. Tắc thở có nghĩa là chết. Ngay từ buổi sơ khai trong công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã sáng tạo và hà hởi vào con người đầu tiên là Adam để truyền sinh sự sống cho ông. Sách sáng tường thuật: “ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật.”(St.1:8) sang thời Tân Ước: chính Chúa Giêsu, sau khi sống lại, rồi sau đó đã hiện ra với các tông đồ Ngài cũng đã lập lại những hành động ấy với các ông: “anh em hãy nhận lấy ThánhThần.” (Ga. 20:22)  Nhận lấy Chúa Thánh Thần có nghĩa là nhận lấy sức mạnh, sự khôn ngoan, và can đảm… để làm chứng cho Thiên Chúa xuyên suốt mọi thời đại cho đến ngày cuối cùng.
Adam một sinh vật đầu tiên đã nhận được Thần khí của sự sống và đã chu toàn bổn phận sống của mình như một nguyên tổ.  cũng vây, các Tông đồ khi nhận được Chúa Thánh Thần các ông đã hăng say, can đảm để rao giảng và làm chứng cho sự thật về một Đức Kitô chịu đóng đinh, bởi vì đối với người Do thái cây thánh giá là một ô nhục và đày xấu hổ. Trong thư gửi tín hữu Côrintô Thánh Phao Lô viết: “Trong khi người Do-thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy-lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Ki-tô bị đóng đinh, điều mà người Do-thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do-thái hay Hy-lạp, Đấng ấy chính là Đức Ki-tô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Vì cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người.” (1Cor 1:22-25)
Còn với chúng ta thì sao? mỗi người trong chúng ta khi chịu phép rửa tội là chúng ta được dìm vào trong nước để thanh tẩy và được sức dầu trong bí tích thêm sức. Chúng ta đã nhận được hơi thở và nguồn mạch thần khí của Chúa Thánh Thần ban xuống trên chúng ta. Cái chính là chúng ta đã lãnh nhận và đáp trả ra sao. Thánh Phaolô khi miêu tả về những đặc ân, ân sủng dành cho mỗi tri thể trong giáo hội  được đề cao trong “Đức mến” như một hồng ân tuôn đổ từ Chúa Thánh Thần: “Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả”.  (1Cor 13.4-7)
Sống đức bác ái yêu thương trong Thiên Chúa là sống cho đi, sống quên mình vì Chúa và vì tha nhân. Một ngừơi sống yêu thương là một người đã thực sự chu toàn lề luật và là người kitô hữu đích thực. Chỉ có yêu thương, con người mới tìm thấy chân lý trọn vẹn nơi Thiên Chúa. Chỉ có yêu thương, con người mới có thể đem hòa bình đến cho thế giới.  Và chỉ có yêu thương, con người mới xác định rõ ý nghĩa và giá trị của đời sống. “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau ; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này : là anh em có lòng yêu thương nhau.” (Ga13. 34- 35) Chính vì khí cụ của tình yêu thương tuyệt đối mới làm cho con người trở nên giống Chúa. Bởi vì Thiên Chúa là Tình Yêu. “1Ga 4.16)
Lậy Thiên Chúa là nguồn mạch của mọi sự thiện hảo, “là đường , là sự thật và là sự sống.” Xin hãy ban Chúa Thánh Thần xuống để đổi mới và canh tân bộ mặt trái đất. Trong Ngài mỗi chúng con được thực sự nhận lấy ánh sáng và sự thật . Để nhờ sự thật và ánh sáng chúng con sẽ có thể đang bình an và tình yêu chiếu tỏa trên trần gian. Lậy Chúa Thánh Thần xin hãy đến. Amen
 + Pentecost's refections by Dong Tran





Monday, June 6, 2011

Một vĩ nhân sống qua mọi thời đại

Hôm nay ngày mùng 6 tháng 6 năm 2011. Chỉ sau 3 ngài thế giới tưởng nhớ lại một con người vĩ đại đã qua đời. Trong khi ngồi để chuẩn bị cho kỳ thi về Thần học nhưng có một câu đề cập đến “Công đồng Vaticanô II.” Do Đức Giáo Hoàng XXIII tôi mới có cơ hội để tìm hiểu hơn tiểu sử của Ngài và cũng về công việc  của Ngài trong thời gian đang đương chức. Quả thực, triều đại Giáo Hoàng của ngài là không lâu nhưng những gì ngài đã để lại cho Giáo Hội Chúa thì không sao diễn tả hết được bằng ngôn từ. Kho tang lớn nhất mà ngài để lại cho đời là: “ 16 văn kiện vĩ đại của công đồng vaticanô II, (1962-65).”
1. Trước khi là Giáo Hoàng:
 Angelo Giuseppe Roncalli sinh ngày 25 tháng 11 năm 1881 và qua đời ngày 3 tháng 6 năm 1963 , hưởng thị 82 tuổi. Angelo có ơn gọi làm Linh Mục từ rất sớm. Sau khi chịu lễ lần đầu ông đã trình bày với cha mẹ về ước nguyện muốn trở thành linh mục của mình. Một thời gian sau đó ông đã được một cha xứ cho vào ở và học tiếng Latin ở đó. Rồi sau đó ông chịu chức Linh Mục rồi một năm sau cha có bằng tiến sĩ thần học và sau đó và làm thư ký cho giám mục địa phận Bergamo đến năm 1914 (trong gần 10 năm)
Năm 1925, ông được tấn phong làm tổng giám mục hiệu tòa Roncalli và 29 năm đầy khó khăn trong công việc ngoại giao của Tòa Thánh. Ông làm đại diện Tòa Thánh tại Bulgaria (1% Công giáo), Hy Lạp (0,8%) và Thổ Nhĩ Kỳ (0,66%). Khi được đức Giáo Hoàng Piô XII bổ nhiệm ngài làm khâm xứ ở Paris. Đức Cha Angelo đã phat biểu như sau:
"Tôi xuất thân từ giới bình dân. Cha mẹ tôi là người nghèo. Chúa đã đưa tôi ra khỏi xóm làng quê hương, cho tôi chung đường và kề vai sát cánh với những người có tín ngưỡng khác nhau. Bây giờ cũng vậy, tôi không quan tâm đến những gì gây chia rẽ mà chỉ quan tâm đến những gì gây tình đoàn kết. Xin anh chị em hãy coi tôi như một tôi tớ Chúa. Bất luận tôi đi đâu, nếu ban đêm có người nào lỡ đường trước cửa nhà tôi, sẽ thấy cửa sỗ tôi luôn có ngọn đèn sáng. Xin đừng ngại, hãy gõ cửa đi. Tôi sẽ không hỏi anh em là Công Giáo hay không ? Chỉ xin người anh em cứ vào, sẽ có đôi tay thân ái đón tiếp và tấm lòng bạn hữu nồng hậu chào mời".
2. Sau khi là Giáo Hoàng:
Trong triều đại Giáo Hoàng của Ngài đã xảy ra một sự kiện, một biến cố rất lớn và có tầm ảnh hưởng quan trọng trong lịch sử Giáo hội đã xảy ra, đó là Ngài đã triệu tập Cộng đồng Vatican II đưa Giáo hội nhập cuộc vào thế giới tân tiến của thời đại ngày nay.
Chuẩn bị công đồngNgày 25 tháng 1 năm 1959, ông loan báo ý hướng của ông về việc triệu tập một công đồng đại kết để “cập nhật hóa” (aggiornamento) Giáo hội. Ông đã mời các quan sát viên ngoài Công giáo đến dự Công đồng và thành lập một ban thư ký cho việc hiệp nhất. “Chúng ta hãy hiệp nhất với nhau và hãy chấm dứt mọi bất hòa”.
Sau một thời gian làm việc chuẩn bị khẩn trương, Công đồng đã mở năm 1962. Dù tin tức được phổ biến nhưng ít người nghĩ đây là một biến cố quan trọng. Nhưng Giáo hoàng muốn đây là lúc mở toang “các cửa sổ” của Giáo Hội để nhận một luồng gió mát mới mẽ thổi vào. Giáo Hội đang cần sự tiến bộ để theo kịp những trào lưu tân tiến. Nhà báo Francis Mayor viết : (tóm ý) Khi hỏi giáo chủ Gioan XXIII về cộng đồng Vatican II rằng: Chương trình ra sao? Khi nào khai mạc? Thì được trả lời “Để xem Chúa bảo sao đã...”
Ngày 2 tháng 2 năm 1962, ông ra Tự sắc Concilium, ấn định ngày khai mạc cộng đồng là ngày lễ Đức Mẹ Thiên Chúa (11 tháng 10). Ngày 22 tháng 2, tông hiến Veterum Sapientia được ban hành nhằm chấn hưng việc học và dùng tiếng La Tinh trong các chủng viện.
Ngày 19 tháng 3, Giáo hoàng tấn phong thêm 10 hồng y nâng con số hồng y lên 87 vị. Ngày 1 tháng 7 ông ban bố một thông điệp dạy làm việc sám hối cầu nguyện cho Cộng đồng và ngày 6 tháng 8 ông ký tự sắc Appropiquante Concilio ấn định bản quy luật cộng đồng thành lập đoàn chủ tịch gồm 10 hồng y.
Trong thông điệp 11 tháng 9 năm 1962, trước cộng đồng một tháng, ông nói tới việc: "quét sạch bụi bặm trên khuôn mặt Giáo hội" và khẳng định "Giáo hội phải là Giáo hội của người nghèo". Tháng 10 năm 1962 Giáo hoàng Gioan ngỏ lời trước một Hội đồng gồm 2500 Giám mục đến từ mọi nơi trên thế giới về họp Cộng đồng sắp tới.
“Người kế vị khiêm hạ của thủ lĩnh các tông đồ đang nói với chư huynh, người cuối cùng theo thời gian bằng cách triệu tập hội nghị quan trọng này muốn đưa ra một khẳng định mới về huấn quyền giáo hội luôn luôn sống động và sẽ tiếp tục cho đến tận cùng thời gian. Nhờ cộng đồng, kể cả những sai lầm, những nhu cầu và những khả năng của thời đại chúng ta, huấn quyền này sẽ được trình bày hôm nay một cách ngoại thường cho tất cả mọi người sống trên trái đất (...).Điều rất quan trọng đối với công đồng đại kết chính là kho tàng thánh của giáo lý Kitô giáo được gìn giữ và được trình bày một cách hữu hiệu hơn.Trong những công việc thường ngày của văn phòng mục vụ, nhiều khi chúng ta phải lắng nghe những lời của những người đầy nhiệt huyết mà một số người cho là quá buông lỏng và hư hỏng. Chúng ta tin là chúng ta sẽ có những bất đồng ý kiến về những điều được đem ra bàn cãi.. Trong hiện tại, Thiên Chúa quan phòng đang hướng dẫn chúng ta đến một trật tự mới trong niềm cảm thông giữa những con người đang nỗ lực thi hành những kế hoạch của Thiên Chúa, dù có những khác biệt giữa con ngưởi, ý kiến chung vẫn đưa dẫn đến những điều tốt đẹp cho Giáo Hội”.
Các Giám mục bảo thủ hăng hái lên án những sai lầm trong thời đại mới. Nhưng Giáo Hoàng Gioan XXIII có những ý kiến mới mẽ: “Giáo Hội luôn chống lại những sai lầm.”
Giáo hoàng Gioan XXIII nói rất ít trong bài diễn văn khai mạc, nhưng ngài luôn can thiệp khi có những bế tắc.
Đức Giáo Hoàng qua đời ngày 3 tháng 6 năm 1962 trong khi công đồng vẫn đang điễn ra. Ngài được phong chân phước 2000 do đước Giáo Hoàng Gioan Phao lô II.
Lậy đấng Thánh - Giáo Hoàng Gioan XXIII. Người là một con người thánh thiện, khiêm nhường, tin tưởng và đầy lòng khoan dung vào Thiên Chúa. Chính vì lòng khiêm nhường và đầy lòng tin tưởng Thiên Chúa toàn năng đã làm một việc thật vĩ đại để cho mọi thời đại luôn tưởn nhớ tới Ngài. Để đi đến lời kết cho bài viết này, tôi xin mượn lời của Mẹ Thiên Chúa:
 “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa.
Thần trí tôi hớn hở vui mừng,
Vì Thiên Chúa đấng cứu độ tôi.
Phận nữ tì hèn mọn Ngài đoái thương nhìn tới
Từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phuc…”
Chân phước Giáo hoàng Gioan XXIII xin cầu cho chúng con. Amen.
 Author: anonymous writer.

Friday, June 3, 2011

CẢM NGHĨ VỀ NGƯỜI CHỊ

Em khôn, cũng là em chị,
Chị dại, cũng là chị em.
Chị ơi- Khi em ngồi viết bài này, thì chị của em đã đi xa mất rồi (pass away). Nhưng trong tâm trí em vẫn luôn luôn hiện lên hình bóng một người Chị, đầy cảm phục và thân thương. Một người chị với thân hình nhỏ nhắn, tóc dài với cái trán hơi cao... Không biết Chị có hiểu được những nỗi lòng, tình cảm và cảm xúc của em không?
Chúng tôi được sinh ra trong một gia đình công giáo nghèo ở miền quê. Cha tôi là một giáo viên. Nhưng cha lại không phải là con người của những kỷ luật hay khuân phép. Mà ngược lại ông lại là một con người sống rất đạo đức, ôn hoà và đầy lòng khoan dung... Mặc dầu cũng không khỏi chánh được những lúc bực dọc và nóng nảy... Mẹ tôi là 1 nông dân thuần chủng.Tại sao tôi lai dùng cụm từ thuần chủng là bởi vì Mẹ là người rất đáng yêu, thật thà và chân chất quê mùa...nghĩa là có sao thì nói vậy không thêm, không bớt. Hơn nữa, Me tôi không phải là con người hoa mỹ và diêm dúa... Nhưng như theo bố tôi kể lại thì khi Mẹ thời con gái khoảng 19- 20 tuổi. Mẹ không là hoa hậu thì cũng là hoa khôi ở trong xóm làng.  Cha Mẹ tôi lấy nhau khi đó họ cũng còn rất trẻ. Cảm ơn Thượng đế đã se duyên cho tình yêu trong trắng nơi Cha Mẹ con. Và như một kết quả của tình yêu họ đã sinh được 6 người con: 3 trai và 3 gái.
Chị tôi là con gái cả trong gia đình chỉ sau anh trai, nên hầu như mọi chuyện trong gia đình là phải cậy dựa vào Chị. Với thân hình thật gày còm, và nhỏ bé. Nhưng đó không phải là sự giới hạn hay dàng buộc chị trong công việc đồng án hay chợ buá. Nhưng ngược lại, Chị lại luôn tỏ ra là con người của sự rẻo rai, cần cù về đồng áng và chịu đựng rất tốt...
Vì hoàn cảnh gia đình nà tôi nghèo và còn nhiều khó khăn. Nên Chị tôi luôn phải là người gánh chịu nhiều sự thiệt thòi. Ví dụ: Như về vấn đề học hành và sự quan tâm. Chị không được học hành nhiều như chúng tôi và cũng không được sự  quan tâm chăm sóc của Bố Mẹ và người thân nhiều. Hình như Chị chỉ biết đánh vần tên của mình chứ không biết ký hay viết văn gì cả … Nhưng chị lại rất giỏi về tính nhẩm và nhân chia cộng trừ... Khi còn rất nhỏ khoảng 7 hoặc 8 tuổi. Chị đã phải theo mẹ ra đồng, để làm bờ, làm phân, cấy, gặt vvv.. Nói tóm lại là: Chị tôi rất khổ và không có tuổi xuân xanh. Bởi vì thời gian  tuổi trẻ của chị đã cống hiến hết cho gia đình và các em...!
Thời gian cứ vậy trôi như là một giấc mơ cứ trôi và trôi đi mãi tưởng chừng không có mốc hoặc sự chờ đợi nơi chị tôi cho một tương lai. Nhưng hiểu sao được sự khôn ngoan củ đấng tạo hoá và ý định tài tình khéo sắp đặt của Ngài. Chị tôi cũng phải lên xe hoa vì sét cho cùng con người ở một mình thì không tốt. Với sự suy nghĩ như vậy và chi tôi đã quyết định chọn một người chồng cho mình và sau đó chị đã đi lấy chồng. Nhưng quả thực đây hình như không phải là sự xe duyên của thượng đế và đi ngược lại ý muốn của con người. Thời đó có một tràng thanh niên chạc tuổi 35 anh ta đã có vợ và một cô con gái. Chị đã đồng ý lấy anh nhưng chẳng hiểu sao ý thượng đế không cho cuộc hôn nhân này thành công, và chỉ trong thời gian ngắn hai người đã chia tay nhau. Và thời gian lai một lần nữa cứ vậy trôi, vài năm sau một cuộc tình mới xuất hiện. Lần này là 1 tràng thanh niên trẻ hơn Chị tôi khoảng 2 tuổi, hình dáng cũng được và có cái tài ăn nói tốt.  Như một định mệnh không có gì ngăn cản và cuộc hôn nhân đã diễn ra như dự định và được sự đồng ý của mọi người. Anh này thì nghèo. Tưởng lấy nhau về hai người sẽ tu trí làm ăn và sẽ có những đứa con. Đó có thể nói là giấc mơ của giản dị của Chi. Nhưng ngược lại sự thật lại cũng thật chớ trêu và không được như sự mong muốn của chị. Anh này thì có khả năng ăn nói nhưng lười biếng, bạc bẽo và chơi bời… Do vậy mọi trồng chất và khổ đau đều đổ lên đôi vai Chị tôi. Tôi còn nhớ rằng có một hôm Chị đi làm đồng về, lúc đó đã hơn 12 giờ trưa rồi mà chồng ở nhà không nấu cơm cho vợ vì mải đi chơi và không có tình thương đối với vợ…vậy là Chị chẳng còn cách nào khác đã sang nhà Mẹ để xin ăn. Đến nhà, Chị nói với một giọng nói của sự yếu ớt hỏi me: Mẹ ơi? Mẹ còn cơm không cho con ăn với? Mẹ tôi liền âu yếm trả lời còn cơm đấy con à! và Mẹ tôi nói tiếp nhưng hình như không còn gì ăn con ơi. Thật, tôi có thể hiểu và cảm thông được tận đái lòng Mẹ tôi là rất thương Chị. Nhưng thử hỏi Mẹ  phải làm gì đây? Sau đó Chị đi xuống bếp và bốc mấy cục cơm nguội với vừng khô và muối để ăn cho qua bữa trưa… Đây chỉ là một trong những ví dụ mà tôi muốn gợi ra thôi chứ còn biết bao nhiêu lần khác nữa. Những lúc ấy bản thân tôi cũng như mẹ rất là thương Chị.
  Sự thật đầy chớ trêu đã đến cho Chị tôi. Chị đã mắc phải căn bệnh đầy hiểm nghèo đó là bệnh ung thư gan (lung cancer). Trong suốt thời gian lâm bệnh của chị dường như tôi không có nhiều thời gian ở bên Chị được bởi vì, công việc học hành của tôi ở xa nhà. Măc dầu tôi hiểu rằng có ở bên chị cũng chẳng giúp được gì ngoài những lời nói truyện và động viên cho chị vui... và chỉ sau một thời gian ngắn chị tôi đã phải ra đi chỉ sau khoảng 6 tháng từ khi phát hiện ra bệnh ung thư. Sự ra đi của chị đã làm cho bao nhiêu người thương đau và luyến tiếc. Một là Chị còn rất trẻ. Thứ hai là Chi để lại cho chồng 2 người con còn qúa thơ dại...Hơn nữa, sự ra đi của chị cũng thực sự là một cú sét đánh đổ xuống gia đinh tôi.
Chị à! nếu để cho em viết về người Chị thật bất hạnh này, em thiết tưởng em sẽ viết rất dài. Nhưng thôi em xin kết với những dòng chữ như sau: "Chị ơi! em và mọi người trong gia, yêu và thương chị vô bờ và cũng rất biết ơn Chị đã cống hiến và hy sinh cho Gia Đình..." Em cầu xin Chúa là người thầy của lòng thương xót, mong Ngài sẽ không chấp nhặt những lỗi lầm của Chị khi còn sống. Nhưng sẽ thưởng công cho Chị trên thiên đàng là được nhìn thấy sự vui vẻ và hạnh phúc trước thiên nhan đấn tối cao. Em sẽ luôn luôn nhớ và cầu nguyện nhiều cho Chị. Một lần nữa cho em nói lên rằng. Em rất mến yêu Chị!
  Anonymous.