Virtual Catholic Library

Saturday, July 31, 2010

KHI GIỮ MÌNH TRONG SẠCH TÔI TÌM ĐƯỢC ĐỨC KHÔN NGOAN

 




 Lang thang tren net!

 Psa 111:10  The fear of the LORD is the beginning of wisdom; a good understanding have all those who practice it. His praise endures for ever!

 Kính sợ Thiên Chúa là khở điển của việc tìm kiếm sụ khôn ngoan!
Vâng tôi luôn xác tính rằng, chỉ có Thiên Chúa là nguồn mạch của mọi sự thiện hảo. Do đó sự khôn ngoan luôn luôn được khở điểm từ Thiên Chúa, và người sẽ phân phát cho những ai biết kính sợ Người , vì chính lẽ này mà họ sẽ tìm thấy sự khôn ngoan và hạnh phúc đích thực nơi tạo hóa. (Đông Trần)

Dưới đây là những lời dẫn chứng của một vị Linh Mục, người đã thực sự tìm kiếm được sự khôn ngoan...!
Cha Paul Bertrand là Linh Mục Thừa Sai Công Giáo tại Cộng Hòa Trung Phi. Ngày mới đến đây Cha phải một mình chăm sóc mục vụ cho nhiều bộ lạc khác nhau. Tại bộ lạc đầu tiên Cha dạy giáo lý và chuẩn bị cho một bé trai tên Gioan rước lễ lần đầu. Sau đó Cha lên đường sang bộ lạc thứ hai, rồi thứ ba ..

Một năm trôi qua Cha trở lại thăm bộ lạc thứ nhất. Được tin, cậu Gioan vui mừng chạy đến chào thăm Cha Paul Bertrand. Cậu thưa: ”Xin Cha cho con rước Đức Chúa GIÊSU nữa đi!” Cha Paul âu yếm trả lời: ”Được, Cha sẽ cho con rước Chúa. Nhưng con phải xưng tội trước đã! Một năm trôi qua, ai biết được là con đã phạm những tội nào!” Cậu Gioan ngạc nhiên hỏi: ”Cha nói sao? Tội lỗi gì? Người ta còn có thể phạm tội sau khi đã rước Đức Chúa GIÊSU Thánh Thể vào lòng sao? Phần con, nhờ ơn Đức Chúa GIÊSU, từ ngày rước lễ lần đầu đến nay, con không hề phạm một tội nào hết!”

... Câu chuyện thứ hai xảy ra hồi đệ nhất thế chiến 1914-1918. Vào buổi chiều sau trận đánh dữ dội đẫm máu, các Linh Mục Tuyên Úy Công Giáo cùng với các bác sĩ và y tá đi vòng quanh bãi chiến để chăm sóc người hấp hối và để khiêng xác các quân nhân tử trận.

Gần nơi bụi rậm, Cha Tuyên Úy quỳ cạnh một người lính trẻ tuổi. Đôi mắt anh mở lớn nhìn trời. Không thấy vết thương cũng không thấy máu chảy, Cha Tuyên Úy nhẹ nhàng hỏi: ”Con bị thương ở đâu?” Người lính đáp: ”Ở sau lưng!” Cha hỏi tiếp: ”Con có muốn xưng tội không?” Người lính thưa: ”Không, con mới xưng tội hồi sáng này. Bây giờ con chỉ ước ao rước Đức Chúa GIÊSU lần cuối cùng thôi!”

Cha Tuyên Úy trang trọng mở túi thánh Cha mang trước ngực, lấy Mình Thánh Chúa và trao cho thương binh hấp hối. Rước lễ xong người lính trẻ thều thào: ”Thưa Cha, bây giờ con không còn sức để tạ ơn. Con sẽ làm khi về Trời. Tuy nhiên, con có một điều muốn nhờ Cha giúp. Xin Cha làm ơn mở túi áo khoác ngoài của con, lấy cái giây lụa trắng. Đây là giây lụa Mẹ con cột quanh cây nến con cầm ngày con rước lễ lần đầu. Từ ngày đó, con luôn mang nó theo mình và tự hứa sẽ không bao giờ phạm một tội trọng nào làm mất lòng Chúa. Xin Cha làm ơn trao giây lụa cho Mẹ con và nói với Mẹ con rằng: ”Con gởi lời vĩnh biệt Mẹ con lần cuối!”

Cha Tuyên Úy cảm động nhận lời. Cha luồn tay dưới ót, đỡ đầu người lính trẻ. Anh mĩm cười nói nhỏ: ”Bây giờ con có thể ngủ yên như khi còn ở nhà!” Nói rồi, anh nghiêng đầu xuống và êm ái trút hơi thở cuối cùng.

... Câu chuyện thứ ba cũng xảy ra trong thời đệ nhất thế chiến. Ngày 18-11-1916, tại làng Torcegno (Đông Bắc Ý) một toán lính người Áo đến bao vây, lục soát nhà xứ và bắt Cha Sở mang đi. Trong giây phút hỗn độn đau thương đó Cha Sở đã nhanh nhẹn túm được cậu bé giúp lễ tên Almiro Faccenda, lên 7 tuổi. Cha Sở nói nhỏ vào tai cậu: ”Cha giao cho con Đức Chúa GIÊSU Thánh Thể. Đây là chìa khóa Nhà Tạm. Con nhớ giữ thật kỹ. Khi nào cần, con cho người ta rước lễ. Xin THIÊN CHÚA chúc lành cho con, hỡi chú bé giúp lễ yêu quý của Cha”. Cha Sở vừa nói xong, toán lính hùng hổ xông tới áp giải Cha mang đi.

Giáo dân tuốn đến thật đông. Sau đó họ kéo nhau vào nhà thờ cầu nguyện. Trong y phục giúp lễ, cậu bé Almiro nghiêm trang tiến lên bàn thờ, leo lên chiếc ghế đặt trước Nhà Tạm, cẩn trọng lấy chìa khóa mở cửa Nhà Tạm. Và rồi với dáng điệu thật chăm chú, sốt sắng, Almiro run run cảm động trao Mình Thánh Chúa cho mọi người, bắt đầu từ Mẹ cậu. Bên ngoài, tiếng đại bác nổ rền trời.

Buổi sáng hôm đó, khi trở về nhà, Almiro thưa với Mẹ: ”Mẹ à, con phải làm gì với đôi bàn tay này? Đôi bàn tay đã từng chạm đến Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ?” Bà mẹ âu yếm trả lời: ”Con yêu dấu. Con hãy cẩn trọng giữ gìn để đôi bàn tay không bao giờ làm điều gì mất lòng Chúa và thương tổn đến tình bác ái!”

16 năm sau - năm 1932 - Cha Almiro Faccenda dâng Thánh Lễ mở tay trên cùng bàn thờ của nhà thờ xứ đạo Torcegno. Lễ xong, khi cầm hôn đôi bàn tay của vị tân Linh Mục, bà mẹ cảm động nói: ”Mẹ không ngờ đôi bàn tay đã một lần chạm đến Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU lại có được định mệnh tốt đẹp cao cả của ngày hôm nay: trở thành đôi bàn tay của vị Linh Mục đời đời của THIÊN CHÚA”.

... ”Thời còn trẻ, trước khi bôn ba đây đó, tôi đã công nhiên tìm kiếm đức khôn ngoan khi dâng lời cầu nguyện. Nơi Thánh Điện, tôi hằng cầu xin, và cho đến mãn đời, tôi vẫn tìm kiếm đức khôn ngoan. Như hoa tươi nở, tựa chùm nho chín, đức khôn ngoan làm hoan hỷ lòng tôi. Chân tiến bước trên đường ngay nẻo chính, tôi dõi theo đức khôn ngoan từ thửơ còn thanh xuân ... Tôi đã hướng lòng về đức khôn ngoan, và khi giữ mình trong sạch, tôi tìm được đức khôn ngoan. Tôi đã để tâm tìm hiểu ngay từ đầu, nên tôi sẽ không bị ruồng bỏ” (Sách Huấn Ca 51,13-15/20).

Đông Châu Trần.

Friday, July 30, 2010

Mỗi ngày, xin hãy phó thác cho Chúa

Mỗi ngày, xin hãy phó thác cho Chúa

Mỗi ngày, tôi sẽ bắt đầu bằng lời cầu nguyện “hôm nay là ngày Chúa đã làm ra, nào ta hãy vui mừng hoan hỷ” (Tv 118:24).
Mỗi ngày, tôi sẽ nói: “tôi làm được mọi sự với Đấng ban sức mạnh cho tôi” (Pl 4:13).
Mỗi ngày, tôi sẽ không còn lo lắng, vì “Chúa của tôi sẽ thỏa mãn mọi nhu cầu của anh em một cách tuyệt vời, theo sự giàu sang của Người trong Đức Kitô Giêsu” (Pl 4:19).
Mỗi ngày, tôi sẽ không còn sợ hãi, vì “Chúa đã chẳng ban cho chúng ta một thần khí làm cho chúng ta trở nên nhút nhát, nhưng là một Thần Khí khiến chúng ta được đầy sức mạnh, tình thương, và biết tự chủ” (2 Tm 1:7).
Mỗi ngày, tôi sẽ không còn nghi ngại, vì “không có đức tin, thì không thể làm đẹp lòng Chúa, vì ai đến gần Chúa, thì phải tin là có Chúa và tin Người là Đấng ban phần thưởng cho những ai tìm kiếm Người” (Dt 11:6).
Mỗi ngày, tôi sẽ không còn khiếp sợ, vì “Chúa là thành lũy bảo vệ đời tôi, tôi khiếp gì ai nữa? (Tv 27:1).
Mỗi ngày, tôi sẽ không còn lo thất bại, vì “Chúa hằng cho chúng tôi tham dự cuộc khải hoàn trong Đức Kitô” (2 Cr 2:14).
Mỗi ngày, tôi sẽ không thiếu khôn ngoan, vì “nếu ai trong anh em thiếu đức khôn ngoan, thì hãy cầu xin Chúa, Người sẽ ban cho. Và Người ban cho mọi người cách rộng rãi, không quở trách” Gc 1:5).
Mỗi ngày, tôi sẽ không còn sợ bị lên án, vì “giờ đây, những ai ở trong Đức Kitô Giêsu, thì không còn bị lên án nữa” (Rm 8:1).
Mỗi ngày, tôi sẽ không còn lo âu, nản chí, vì “mọi âu lo, hãy trút cả cho Chúa, vì Người chăm sóc anh em” (1 Pr 5:7).
Mỗi ngày, tôi sẽ không còn phiền muộn, vì “lòng thương xót của Chúa mãi không vơi. Sáng nào Người cũng ban ân huệ mới. Lòng trung tín của Người cao cả biết bao!” (Ac 3:22-23).
Mỗi ngày, tôi sẽ không còn cô đơn, vì Chúa Giêsu đã nói “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế." (Mt 28:20).
Mỗi ngày, tôi sẽ không còn bất mãn, vì “tôi đã học sống hài lòng trong bất cứ hoàn cảnh nào” (Pl 4:11).
Mỗi ngày, tôi sẽ không còn cảm thấy bất xứng, vì “Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người” (2 Cr 5:21).
Mỗi ngày, tôi sẽ không còn bối rối, vì “Chúa không phải là Chúa gây hỗn loạn, nhưng là Chúa tạo bình an” (1 Cr 14:33).
Mỗi ngày, tôi sẽ không để những gánh nặng của cuộc đời làm phiền lòng tôi, vì Chúa Giêsu đã nói “trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16:33b).
Mỗi ngày, tôi sẽ không còn cảm thấy thất bại, vì “trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta” (Rm 8:37).

Thursday, July 15, 2010

Vì tôi là linh mục

Vì tôi là linh mục

Một quý vị bạn đọc gửi đến chúng tôi bài viết với lời chú thích như sau:
Tôi đã viết bài này cách đây vài năm. Với tôi Thiên chức Linh Mục là niềm cao qúi tự hào của người công giáo. Các Ngài đã được Thiên Chúa chọn từ trước và nâng đỡ mọi ngày cho đến ngày đón nhận Thiên chức một cách thánh thiện.
Gần đây được bạn bè giới thiệu trang NVCL, đọc theo dõi cách thận trọng. Cs đánh phá GHVN? Nhưng không, nơi đây tôi tìm thấy nhiều tác gỉa quen thuộc như: LM Pascal Nguyễn Ngọc Tỉnh, anh J.B Nguyễn Hữu Vinh, Alf. Hoàng gia Bảo, Gioan Lê quang Vinh, Hồ học – Trần trung Luận…vv.
Tôi đã tin và tâm đắc những ý kiến trong từng bài.
Tôi bị sốc nặng khi hiểu được hiện tình GHVN như giờ. Thật không thể tưởng tượng được có những linh mục, thậm chí GM vì lợi ích nào đó mà bỏ Chúa để theo satan. Chuyện không thể tin… lại xảy ra ngay trước mặt. (Huynh Nguyen)

Theo lịch năm thánh thì ngày 30 tháng 06 kính Thánh Tâm Chúa Giêsu cũng là ngày thánh hóa linh mục.  Nhân thể xin viết đôi điều vụn vặt về chuyện này.
Đề tài Linh mục, cho đến bây giờ vẫn còn lạ lẫm đối với nhiều người, do vậy lâu lâu nó lại được leo lên sân khấu, phim ảnh hay sách vở. Mỗi lần như thế nó gây nhiều ấn tượng, nhiều chú ý, nhiều ồn ào. Trước 30/4/75, nhà văn nữ Lệ Hằng đã viết cuốn tiểu thuyết “Tóc mây” nói về cuộc tình của Tố Kim, cô gái trẻ sinh viên Đà Lạt với Hà Vĩnh Duy, linh mục nhạc sĩ (?).
Tác phẩm này đã tạo nên một cơn lốc dữ dội, lúc bấy giờ gọi là “hiện tượng tóc mây”. Hình như trước hoặc sau đó không lâu nhạc phẩm “Vì tôi là linh mục” cũng ra lò và chuyền làng. Bài hát này đã tạo nên cơn bão cuốn hút luôn linh hồn của các cô gái nhỏ ngây thơ, thậm chí đến “ma sơ” cũng nghêu ngao khi rảnh việc, lúc buồn buồn:
Vì tôi là linh mục
Không mặc chiếc áo dòng
Nên chi đời đau khổ
Nên trót đời lang thang…
Diễn giải tâm sự buồn của một linh mục đã trót dại yêu một tín đồ, nên cởi bỏ chiếc áo dòng mà đi bụi đời?
Từ đó hễ nghe có cuốn truyện nào viết về Linh mục là vội vã đi mua hay mượn về coi cọp, như: “Bão biển” của Chu Văn, “Người mục tử trong sương mù”… Lúc đầu thì đọc ngấu nghiến vì tò mò, nhưng chỉ đọc năm bảy trang là bản thân làm cách mạng, ngáp dài, ngán tận cổ, nuốt không trôi. Bởi vì ngay từ đầu đã ngửi thấy sặc sụa mùi bôi bác và ý đồ đen tối của tác giả trong luồng. Họ chụp lên đầu những Linh mục tội nghiệp ấy cái mũ “phản động” hay cái mũ “đồi trụy”. Cũng chính vì những toan tính bẩn thỉu và lộ liễu ấy mà nó mau chóng bị bỏ rơi vào quên lãng, thậm chí còn phản tác dụng. Thiên hạ ngày càng thương ông Cha hơn.
Xét về nguyên nhân tu trì thiên hạ thường bảo: Trốn việc quan đi ở nhà Chùa, chán đời hay thất tình đi tu, bởi vì “tu là cõi phúc, tình là dây oan”… Các nhà văn, soạn giả khai thác tận tình chủ đề này như: “Hồn bướm mơ tiên. Hay dàn dựng những vở kịch ăn khách như: “Chuyện tình Lan và Điệp”, “Lá sầu riêng” v.v.…nên nhạc sĩ P. D. có bài thơ:
Ngày em đi lấy chồng
Anh nằm cuộn trong chăn
Như con sâu làm tổ
Trong trái vải cô đơn.
Hay thẫn thờ, lang thang, miệng lẩm nhẩm như kẻ mất hồn:
Ôi biết nói gì cuộc tình lớn quá
Cuộc tình lớn quá ôi biết nói gì
Cuộc tình quá lớn…
Sau cú sốc quá đau vì cuộc tình quá lớn, anh chàng lặng lẽ khăn gói, âm thầm vào nhà dòng nào đó tu thân cho đỡ lẻ loi. Ơn Chúa tuôn đổ, một thời gian sau, anh chàng được thụ phong Linh mục. Trong ngày lễ mở tay, cô này dắt con mình tới và nói:
- Con ạ, gọi cha đi con!
Não nuột!
Cha chớp chớp đôi mắt “mơ huyền” nhìn về chốn xa xăm… Bây giờ mỗi lần nhắc lại chuyện này, linh mục mỉm cười nói với bạn bè: “Nếu không bị cô nàng đá lên đá xuống chắc bây giờ đã là bố cu Ti cu Tèo… chứ đâu có làm cha “thiên hạ” như các bạn thấy đó. Chúa chọn con như sét chọn cây tầm thường. Quả ý Ngài nhiệm mầu hết xẩy!”.
Bên đạo ta lý do thất tình đi tu chẳng phải là không có, nhưng rất hiếm vì chú nhóc vào chủng viện hay nhà dòng hồi tóc còn để chỏm. Thật khó mà hiểu được vì sao chú lại đòi đi tu? Cũng dễ hiểu thôi! Chỉ vì thằng nhóc thấy được các “Cụ” đi giầy Tây, ăn bánh Tây, ở nhà Tây. Ra ngoài đường được cả thiên hạ khoanh tay cúi đầu chào:
- Con xin phép lạy cha ạ!
Có những bậc cha mẹ muốn con cái đi tu cốt để con được nhàn hạ, làm sán lạn tông môn. Như lời hiền mẫu nọ nói với cha phó kia trong cuộc họp hằng tháng:
- Đi tu như các Cha, các Dì thế mà sướng, chứ đèo bòng ở ngoài như chúng con khổ lắm cha ạ!
Đôi khi ông bà già đẩy con mình đi tu chỉ thầm mong có ngày thiên hạ gọi mình “ông cố, bà cố” cho le lói đời với người ta. Ấy vậy mà khi chú nhóc giở chứng muốn từ giã đời tu, ông “chuẩn cố” mắng như ri: “Thà làm con chó nhà Đức Chúa Trời còn hơn làm vương làm tướng ngoài thế gian”.
Những lý do lấn cấn ban đầu, dần theo năm tháng được mài giũa, đẽo gọt, tinh luyện kết tinh thành lý tưởng phục vụ thiên Chúa và tha nhân.
Trong thánh lễ mở tay của cha mới, các vị giảng thuyết thường hùng hổ đến sùi cả bọt mép đề cao vẻ đẹp cao quí của thiên chức Linh mục. Chẳng mấy ai dám cả gan bàn thẳng vào thập tự giá của chức vị này. Làm cho cha mới chỉ thấy bông hồng phía trước mặt mà quên cảnh giác gai nhọn của nó.
Nhưng… tiệc rượu chóng tàn, ngày vui qua mau, vinh quang thoáng chốc. Cuộc sống đời thường phải đối đầu với chướng ngại với thập giá. Các bậc lão thành thường đề cập đến ảnh hưởng của Linh mục như sau:
Linh mục đạo đức thì giáo đân loàng xoàng
Linh mục loàng xoàng thì giáo dân nguội lạnh
Linh mục nguôi lạnh thì giáo dân xấu xa
Linh mục xấu xa thì giáo dân biến thành quỉ dữ.
Giáo dân luôn bị tụt một bậc so với Linh mục. Cũng dễ hiểu, bởi giáo dân là đệ tử, Linh mục là sư phụ về đàng thiêng liêng. Linh mục là người hướng dẫn. Hướng dẫn sai lầm, lời Chúa dạy như sau: Mù dẫn mù cả hai sẽ rơi xuống hố. Cùng với ý tưởng trên, ta cùng nhau suy nghĩ bài giảng nhân ngày mở tay của cha mới. Đại khái như sau:
Hãy cột một chiếc nút để se kết hai đầu vì Linh mục là trung gian se kết con người với Thiên Chúa.
Hãy xây cầu nối liền hai bờ xa cách vì Linh mục nối liền Đất với Trời. .
Nói cách khác Linh mục là trung gian nối liền giữa Nhân loại và đấng Tối cao. Vì vậy Linh mục một bên phải nắm chặt Thiên Chúa, bên kia nắm chặt bàn tay con người. Đem bàn tay con người đặt vào lòng bàn tay Thiên Chúa, cho tình yêu đơm bông kết trái và ơn tha thứ được tuôn chảy ra. Phải cố gắng giữ vững thế tay trong tay vì đó là điều mọi người mong đợi nơi các Linh mục. Cái thế tay trong tay Linh mục không có con đường khác để chọn bởi lẽ buông một trong hai Linh mục sẽ không chu toàn chức vụ của mình .
Muốn chu toàn bổn phận Linh mục phải gắn bó với Thiên Chúa. Có gắn bó với Thiên Chúa Linh mục mới đem Chúa đến với mọi người. Muốn đem Chúa đến cho mọi người, bản thân linh mục phải có Chúa trước đã: Có Chúa trong tâm hồn và có Chúa ngay trong cuộc đời vì Linh mục không thể cho người khác cái mình không có. Linh mục phải chọn Đức Kitô là điểm khởi đầu và kết thúc của cuộc đời. Trái đất xoay quanh mặt trời như thế nào thì Linh mục cũng xoay quanh Đức Kitô như vậy. Được vậy Linh mục có thể hãnh diện nói lên như thánh Phaolô: “Tôi sống không còn là tôi sống, mà chính Đức Kitô sống trong tôi”.
Gắn bó với Thiên Chúa, đồng thời cũng gắn bó cảm thông với con người  Phải luôn luôn giữ cho được thế tay trong tay, lưng liền lưng, ý liền ý.
Tội lớn nhất của Linh mục không phải trót sa ngã, trót vấp phạm, bởi Thiên Chúa đã không chọn các Thiên thần mà chọn những con người tầm thường, yếu đuối làm Linh mục của Ngài. Tội lớn nhất của Linh mục là bỏ rơi một trong hai bàn tay hoặc thờ ơ với anh em đồng loại, hoặc quây lưng lại chống Thiên Chúa. Lúc này Linh mục chỉ là nhịp cầu đã gãy, nút dây đã đứt. Liên lạc đã bị cắt, giao thông gián đoạn. Kẻ thù reo vui.
Từ đó ta không còn ngạc nhiên khi thấy người ta cố ý bôi nhọ, bêu riếu các Linh mục. Bởi đó là mưu thâm chước độc của “địch”. Tuy nhiên không phải chỉ có “địch” mới bôi nhọ, bêu riếu. Hãy coi chừng! Đôi khi chính con cái ngay trong nhà cũng bạo miệng chỉ trích Linh mục đầy ác ý. Họ hỏi rằng: Linh mục đã làm gì cho tôi?
Nhưng chẳng bao giờ dám quay lại nhìn thẳng vào lương tâm mình và tự hỏi:
- Tôi đã làm gì cho Linh mục?
Hễ thấy Linh mục có chút gì sai lỗi, lập tức xì xầm bàn tán, mím môi thổi phồng bong bóng. Họ đâu ngờ rằng rất nhiều khi chính giáo dân đã làm hư Linh mục. Sau đây chỉ xin trình bày hai trường hợp, hai thái cực nho nhỏ mà giáo dân đã xô Linh mục vào chân tường, tới chỗ bất ổn hay làm hư Linh mục.
Trường hợp 1: Thái độ quá trọng kính, trước mặt tỏ vẻ khúm núm… Coi LM như người thông biết mọi sự và chẳng hề sai lỗi bao giờ. Mới ngày nào còn “mày tao mi tớ” với nhau. Khi đã thụ phong LM, từ cục đất cất lên ông Bụt thì lập tức được gọi là Cha, là Cụ, là Cố… khiến cho thiên hạ, kể cả những người thân yêu nhất cũng phải “Kính nhi viễn chi”.
Trọng kính LM là điều quí. Nhưng cử chỉ khúm núm là điều nguy hiểm vì nó dễ làm cho LM quên đi mình là cục đất, mình chỉ là một dụng cụ tầm thường trong tay Chúa. Đôi khi ảo tưởng mình là ông Bụt thật, là cái rún của vũ trụ, rồi từ đó trở thành quan liêu, độc tài, độc đoán và… “mất dạy”!
Đọc tới đây hẳn có người sẽ thì thầm: thằng nào con nào lếu láo, dám cả gan nói mấy cố mất dạy, thiệt hết thuốc chữa! Xin thưa: Mất dạy ở đây không phải là vô phép hỗn hào… mà đơn giản chỉ là không còn được dạy bảo nữa mà thôi. Hiểu như thế, suy nghĩ thêm chút nữa ta sẽ phần nào nhận ra sự thật.
– Con ơi ! kể từ ngày hôm nay, nếu con không ý tứ thì con sẽ trở nên người mất dạy, bởi vì với thiên chức LM con sẽ không còn ai dạy bảo nữa. Đó là lời tâm tình của bà cố vừa có con đỗ Cụ.
Xuất phát từ quan niệm cho rằng: LM là người thông suốt mọi sự cộng với bối cảnh xã hội, người LM phải kiêm nhiệm nhiều chức vụ khác nhau. Từ một người chuyên rao giảng lời Chúa, cử hành các bí tích, nay phải đứng ra hòa giải các vụ tranh chấp, kiện tụng. Cố vấn hôn nhân gia đình, kỹ sư kiêm đốc công các công trình xây dựng, quân sư quạt mo về cung cách làm ăn. Ấy là chưa nói LM còn phải đảm nhận những chức vụ phần đời như: Thành viên tổ chức này, tổ chức nọ, đứng đầu hợp tác xã, chủ máy cày máy xay v.v…
Với những công việc như thế, LM sẽ không còn thời gian để tâm tình cầu nguyện, gắn bó với Thiên Chúa nữa. Rốt cuộc trở nên người mất dạy dưới cái nhìn xót xa của Chúa. Tiếp đến do những thành công gặt hái được liên tiếp, và nhất là do những trọng kính thái quá người khác dành cho mình, Lm cứ ngỡ mình là bậc thầy lỗi lạc, trỗi vượt lên trên mọi người, ý kiến của mình luôn luôn đúng, dần dần gạt bỏ mọi ý kiến đóng góp và những đề nghị xây dựng khác với đường lối chủ trương cúa mình. Từ đó dễ rơi vào tình trạng độc tài, độc đoán. Phải chăng Lm đã tự làm cho mình trở nên “mất dạy”?
Trường hợp 2: Thái độ vô ơn và nghiêm khắc, thiếu cảm thông của giáo dân, đôi khi làm cho Lm buồn đau… âm thầm rơi nước mắt. Cách cư xử thông thường của người đắc nhân tâm: Nghiêm khắc với bản thân mà khoan dung với người khác. Thế nhưng, thiên hạ thường hành động ngược lại: Nghiêm khắc với người khác mà khoan dung với chính bản thân mình. Quan niệm này cũng được áp dụng vào mối liên hệ với Lm. Nhân vô thập toàn, đã là con người thì ai cũng có lầm lỗi của mình, kể cả Lm vì Lm cũng mang thân mỏng giòn. Bàn tay còn có ngón ngắn ngón dài, bá nhân bá tánh, chín người mười ý, hay như tục ngữ có câu:
Ở sao cho vừa lòng người. Ở rộng người cười. Ở hẹp người chê.
Cao chê ngỏng, thấp chê lùn. Béo chê béo trục, béo tròn.
Gầy chê xương sống, xương sườn bày ra.
Lm giống như người làm dâu trăm họ, rất khó làm vừa lòng mọi người, nếu cố gắng làm vừa lòng mọi người thì rốt cuộc sẽ chẳng vừa lòng ai. Nói chi, ngay trong gia đình chỉ vỏn vẹn có năm, bảy người cùng chung máu mủ còn chưa vừa lòng nhau, huống chi Lm phải xử sự với hàng trăm hàng ngàn người. Giáo dân thường hay quên mất công ơn Lm đã làm, chỉ nhìn thấy khuyết điểm để lớn tiếng phê bình chỉ trích một cách gắt gao. Kéo nhau lên Tòa Giám mục tố cáo hoặc nộp đơn cho chính quyền kiện tụng linh tinh.
Có những nơi họ đạo nghèo mái tranh vách đất, hoặc còn hoang vu chưa có nhà thờ, Lm về bỏ công sức, huy động tiền bạc, xây dựng: nhà thờ, nhà xứ, trường học v.v… Rồi một ngày Lm già, sức yếu cùng với một vài lẩm cẩm của tuổi già thì người ta bàn tán xì xào, viết thư nặc danh ném vào phòng tố cáo này nọ, chỉ vì sự già nua của Lm.
Tòa Giám mục biết được liền đổi cha đi chỗ khác. Nhận được tin họ mừng ra mặt. Mặt khác họ cử đại diện lên gặp Giám mục để xin Lm ở lại với bộ mặt đầy thểu não. Thế nhưng khi được hỏi:
- Bộ các ông không muốn cha đi hay sao? Họ trả lời:
- Cha đi mình chẳng níu kéo, coi sao được. Đời mà! Lời bất tòng tâm!
“Bạc như dân, bất nhân như lính”. Bao lâu Lm còn khỏe mạnh phục vụ cho giáo xứ thì là cha đáng mến đáng trọng. Một khi đau yếu già nua, là gánh nặng, là cái gai cần nhổ đi. Nói như vậy có quá đáng không? Trên đời chuyện gì cũng có, chứng kiến thực tế có những chuyện khiến ta phải đau lòng.
Một cha sở chẳng may bị ung thư qua đời. Thuốc thang mai táng tốn khá nhiều. Tiền túi bỏ ra hết, rốt cùng tồn đọng một món nợ. Sau khi “mồ yên mả lặng”, người ta cãi nhau chí chóe về món nợ này. Giáo xứ, dòng họ không ai nhận trả. Cuối cùng Tòa GM đành ép lòng ép xác nhận vậy!
Thấm thía nhất , thâm sâu tận cõi lòng có lẽ là Nỗi cô đơn của đời Lm.
Một chiều Chúa nhựt đẹp trời. Mọi người ra về. Cửa nhà thờ khép lại. Một mình trong nhà xứ rộng mênh mông. Thưa chuyện với Chúa thì hình như Chúa cũng xa vời. Còn một mình Tôi nhìn tôi trơ vơ trên vách. Nỗi cô đơn sẽ đậm đặc hơn khi Lm đau yếu. Có một cha đã than thở như sau:
Có một ngày mình đau, nhờ chú nhỏ giúp lễ tìm người cạo gió. Nhờ bà này cô kia thì không ổn. Thiên hạ không cho phép, bởi đó là chước ma quỉ. Các bà các cô, hiền thì hiền đôi khi cũng chẳng thua sư tử Hà Đông. Máy móc điện tử hiện đại nhất chưa chắc đã nhanh hơn chiến thuật rỉ tai của đoàn nữ binh hùng hổ này. Đàn ông ai cũng bận, sau cùng tìm được một “anh ba xị đế” về. Khi cạo gió thân thể đang nóng bừng vì được thoa dầu, bỗng dưng thấy lạnh toát ở xương sống. Quay lại nhìn: hóa ra nước mũi của ông vô tư rơi thánh thót trên lưng mình. Dân ghiền thường bảo: một xị khai môn trí hoá, hai xị giải phá cơn sầu, ba xị mũi chảy đầy râu, bốn xị… Lần khác ông đổ dầu hôi vào ống giác, châm lửa rồi ụp lên lưng, dầu loan ra, lửa bùng cháy bỏng cả lưng. Nhiều khi đau ốm đành âm thầm chịu đựng hoặc nhìn lên trần nhà xem hai con thằn lằn đuổi nhau. Không người thân, chẳng ai thăm hỏi, nằm một mình co rút lại như  “Con chim ẩn mình chờ chết”!
Sau cùng, nỗi cô đơn sẽ đặc quánh khi Lm về già. Nhà hưu nơi có nơi không. Về ở với con cháu, ít ra phải có tí tiền thì họ mới hăm hở nhiệt tình. Khi tiền đã hết, tình cũng bay luôn. Bấy giờ sự chăm sóc trở thành gánh nặng.
Chuyện còn dài nhưng xin “xì tốp” nơi đây bằng vài mẩu chuyện ngắn để ta cho bộ não làm việc một chút cho bỏ tật lười:
1- Đức Giáo Hoàng Piô X, ngay sau khi được tấn phong Giám mục Montava liền khoe chiếc nhẫn GM của mình với mẹ: Mẹ xem chiếc nhẫn có đẹp không?
Bà mẹ bèn giơ chiếc nhẫn cưới trên tay và bảo: Nếu không có chiếc này thì làm gì có chiếc kia.
2- Giáo xứ nọ, giáo dân hay đâm đơn tố cáo cha lên TGM. Đức Cha quyết định đổi ngài đi xứ khác, thay cha mới về. Ngày bàn giao, chính GM cử hành thánh lễ nghinh tân tống cựu. Ngài sắp đặt mọi thứ, không cho hai cha và giáo dân biết. Đến giờ cử hành thánh lễ: cửa mở ra, mọi người bàn tán xì xèo… Thánh lễ xong, trước khi ban phép lành, GM chỉ tay xuống cái quan tài đặt giữa nhà thờ:
- Đây là quan tài của một người mà ai cũng quen biết. Mọi người hãy theo thứ tự tới từ giã lần cuối.
Ai ai cũng ngỡ ngàng… mở to mắt nhìn vào, không thấy xác ai, chỉ thấy một tấm gương to. Từng người đến viếng ai ai cũng thấy chính mình bên trong quan tài.
Khi mọi người đã về chỗ của mình, GM nói lớn: Con người ai cũng phải nằm trong chốn ấy. Sống chung, hòa thuận vui vẻ rồi chết. Tố cáo, kiện tụng, gây chia rẽ bất hòa rồi cũng chết. Ai muốn theo con đường nào tự mình chọn lấy!
Nhìn về phía hàng ghế giáo dân nhấp nhô những bóng khăn chặm nước mắt…
Đời sống LM không phải dễ đi. LM phải đồng hành, sẵn sàng đưa vai vào thập giá cùng vác, chia sớt gánh nặng với Đức Giêsu. Hãy tìm lại những dấu chân, những giọt mồ hôi khi Ngài đi rao giảng. Hãy trả lại cho Ngài những giọt máu hồng tươi khi ta tiếp tay đẩy lưỡi gươm đâm sâu vào cạnh sườn Ngài. Nếu tu là cõi phúc tình [Phan Sinh] cũng là cõi phúc vậy. Chiếc nhẫn trên tay từng người Phan Sinh cũng là chiếc nhẫn tu “LM”. Ở đấng bậc nào cũng tốt, cũng là cõi phúc, miễn ta đi đúng con đường Chúa đã dạy.
Huynh Nguyen

Saturday, July 10, 2010

Gánh Chúa trao có nặng quá không?

Lang thang tren net.


VRNs (10.07.2010) – Sài Gòn - Thỉnh thoảng có người Công giáo quen biết tìm tôi và hỏi thủ tục… ly hôn, vì họ biết tôi có cộng tác với văn phòng luật và cũng biết đôi chút về giáo luật. Tôi đã tự nhủ là sẽ không giúp ai ly hôn bao giờ vì điều ấy trái luật Chúa. Điều họ hỏi thì mình phải trả lời, nhưng luôn cố thuyết phục họ đừng ly hôn. Thậm chí có người cũng hiểu biết, còn hỏi: “Trường hợp chúng tôi có được hưởng đặc ân thánh Phaolô không?”. Nghe mà đau lòng. Người ta dùng đặc ân của Hội Thánh để chối từ lề luật Chúa và Hội Thánh.
Mới đây có một cô sinh viên cũ của tôi gọi điện thoại vừa khóc vừa bảo rằng hãy giúp cô ly hôn ngay đi. Điều đáng buồn nhất là cách đây hơn nửa năm, chính cô đã báo tin cho tôi là cô vừa có thai và xin tôi đỡ đầu cho cháu bé chuẩn bị chào đời, không cần biết cháu là con trai hay con gái.
Tôi khuyên cô bỏ ý định ly hôn nhưng không được, cô chỉ một mực nói: “Em phải ly hôn, không có cách gì khác nữa đâu”, dù rằng cô sắp sinh em bé. Cô là người lương, theo đạo, lấy chồng và hai vợ chồng sống với gia đình cha mẹ ruột của cô. Nhưng cách sống của người chồng đạo dòng ấy thế nào mà đã làm cho cô đòi ly hôn ngay khi sắp sinh con đầu lòng. Đau buồn thật. Nhưng liệu giải pháp ly dị có thể làm cho cô khá hơn về mặt nào không? Và cháu bé sẽ ra sao?
Sáng nay cô nhắn tin cho tôi: “Em nộp đơn ly hôn rồi. Nhưng em có cần trình cho cha xứ không? Bạn em đứa nói có đứa nói không.” Tôi buồn buồn nghĩ rằng chẳng lẽ bây giờ lại đến cha xin ban phép ly dị? Lời thề bên bàn thờ Chúa và trước cộng đoàn mới một hai năm trước chẳng lẽ em chẳng còn nhớ chút nào sao?
Nhiều người trách Hội Thánh sao vẫn cứ khăng khăng với luật cấm ly dị, mặc dù thời đại đã thay đổi, con người tự do hơn và người phụ nữ đã được “giải phóng”. Tôi vốn không hiểu nổi từ “giải phóng phụ nữ”, bởi vì từ ngày có phong trào này, dường như xã hội lộn xộn hơn, ly hôn nhiều hơn, phá thai tàn bạo hơn v.v… Hoá ra phong trào này cũng chỉ đụng chạm đến cái tuỳ phụ mà phải hy sinh những điều lớn lao và căn bản khác.
Không người Công giáo nào không nhớ đến Lời Chúa Giêsu: “Điều gì Thiên Chúa đã liên kết thì con người không được phân ly” (Mc. 10,9). Mới nghe tưởng Lời Chúa là sự ràng buộc nặng nề, hoá ra đây mới chính là lời giải phóng phụ nữ một cách toàn diện nhất. Chúa Giêsu đã bảo “Ách Ta thì êm ái, gánh Ta thì nhẹ nhàng”.
Gánh của hôn nhân khi được Thiên Chúa trao với tình yêu và khi con người đón nhận vì tình yêu thì cuộc đời bỗng đẹp và đáng yêu biết bao! Vậy người phụ nữ được giải phóng thật là khi họ được luật Chúa bảo vệ, được yêu thương chăm sóc, chứ không phải khi họ “được” đem đơn đến toà xin ly hôn trong nước mắt!
Cách đây ít lâu một tạp chí ở Sàigòn đăng truyện ngắn thật cảm động “Hạnh Phúc Ở Đâu?” của Tiểu Nhật. Chuyện kể về ba cô nữ sinh trung học trốn học ra ngồi tâm sự ngoài công viên. Một cô nói: “Ôi, sáng nào mẹ mình cũng bắt uống ly sữa đầy, ngán quá. Ước chi mình được tự do!”. Cô thứ hai than: “Trời có lạnh đâu mà mẹ bắt mặc thêm áo gió bên ngoài thế này, chẳng đẹp gì cả. Phải chi mình sống một mình cho khoẻ”. Cô thứ ba bảo: “Còn mình thì chán cái lớp học quá, giờ này lang thang ngoài phố phải khoẻ hơn không?”. Lúc đó, một con bé rách rưới nép mình ngoài hàng rào nghe được, nó vừa bước đi vừa lẩm bẩm: “Vậy là mình hạnh phúc vì mình không có ai ép uống sữa, không có ai ép mặc áo gió, mình mặc áo rách cũng được, và mình có thể lang thang mà không ai ép đến lớp”. Nghĩ thế, con bé thấy mình khóc tự lúc nào!
Hạnh phúc là ở đâu? Có phải ở chỗ được lang thang vô định, không ai quan tâm  đến, hay hạnh phúc lại nằm ở nơi khác, ấy là được chăm sóc bảo bọc và được tuân giữ những lề luật được đặt ra bởi lòng nhân hậu yêu thương. Thánh Vịnh diễn tả hạnh phúc của con người là vâng giữ lề luật cách vẹn toàn. Tự mình tách ra khỏi thánh luật cũng đồng nghĩa với tách mình ra khỏi hạnh phúc.
Lề luật Thiên Chúa cấm con người ly hôn là bởi vì Thiên Chúa là tình yêu, và mọi tình yêu chân chính đều bắt nguồn từ Thiên Chúa. Khi tình yêu con người được Thiên Chúa tác thành, thì họ trở nên một, không những nên một cho nhau mà còn cùng kết hợp thân tình với chính Thiên Chúa. Tách rời tình yêu mà Chúa đã kết hợp nghĩa là phản bội lại chính Đấng Yêu Thương.
Những điều tra xã hội học trong nhiều năm qua cho thấy nguyên nhân ly hôn thì rất nhiều, từ chuyện cá tính xung khắc, chuyện riêng tư, các mối quan hệ gia đình cho đến chuyện ngoại tình, phản bội v.v… Nhưng tựu trung, chúng ta có thể đưa ra một nguyên nhân chung, ấy là con người chưa coi trọng tình yêu và do đó cũng coi thường hôn nhân. Và lý do sâu xa đằng sau đó chính là vì con người chối từ sự can thiệp đầy yêu thương và lề luật nhân hậu của Thiên Chúa là Đấng tác thành mọi sự.
Tháng Sáu, tháng Thánh Tâm vừa qua đi, nhưng hôm nay tôi nhìn lên lịch: ngày thứ Sáu, ngày kính Thánh Tâm yêu thương.
Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu, xin đốt lên trong con lửa yêu mến Thánh Tâm Chúa, để con nhận thấy ách Chúa trao là êm ái và gánh Chúa gửi thì nhẹ nhàng, như Lời Chúa đã nói với chúng con. Và con cũng sẽ hiểu rõ hơn câu châm ngôn Latin “Qui regulae vivit, Deo vivit”, ai sống theo lề luật là sống cho Chúa.
Gioan Lê Quang Vinh

Thursday, July 8, 2010

NẾU TÔI CHỈ ĐƯỢC NÓI MỘT ĐIỀU...

NẾU TÔI CHỈ ĐƯỢC NÓI MỘT ĐIỀU...

 
image
 
Kính thưa quí độc giả website Công Giáo Việt Nam,
Có người muốn chúng tôi “tấn công các truyền thông sự dữ, truyền thông trái chiều”. Chúng tôi cảm thấy thực sự lúng túng, vì bản thân chúng tôi là người đang làm truyền thông, cho dù có thiện chí đến đâu thì cũng không thể tránh những thiếu sót, thậm chí tội lỗi xúc phạm đến Chúa, đến anh chị em mình. Sẽ là oan uổng và mâu thuẫn nếu chúng tôi nghĩ tưởng đến các đồng nghiệp của mình và gọi họ là “truyền thông sự dữ, truyền thông trái chiều”. Dù là tội nhân hay thánh nhân đều được bình đẳng trước tình yêu thương vô bờ của Thiên Chúa. Xin hãy thương xót cả chúng tôi nữa, vì có thể đến lúc nào đó chính chúng tôi sẽ trở thành “truyền thông sự dữ, truyền thông trái chiều” đối với cái nhìn của người khác chăng ? Ai dám tự tin mình không bao giờ sai lầm ?
Khi chủ động tấn công anh chị em mình, cho dù là để “bảo vệ” Chân Lý, “bảo vệ” Hội Thánh thì cũng đều là… ! Điều ấy không cần thiết đối với Thiên Chúa. Ai dám nghĩ mình có khả năng ( dù chỉ một chút xíu ) để “bảo vệ” hay “bênh vực” Hội Thánh ? Hội Thánh chẳng bao giờ sợ bị oan ( có oan cũng chẳng sao ); nhưng Hội Thánh sẽ chịu thương tích khi chúng ta “bảo vệ” Hội Thánh bằng cách “tấn công” người anh chị em của mình !
Năm Thánh Linh Mục đã kết thúc, Năm Thánh Giáo Hội Việt Nam cũng chẳng còn bao lâu, thời đại này rồi cũng qua đi, cuộc đời mỗi người cũng sẽ kết thúc, dù muốn hay không. Thánh Gioan Bosco đã để lại một phát biểu khiến nhiều thế hệ phải trăn trở: “Nếu tôi đi giảng mà người ta chỉ cho phép tôi nói một điều duy nhất, thì tôi sẽ nói đến toà giải tội.” Giờ đây, nếu chúng ta cũng chỉ được nói với nhau một điều duy nhất, chúng ta sẽ nói với nhau điều gì ?
Gioan Bosco chỉ xin nói đến cái toà giải tội, vậy phải chăng điều cần nói cho chúng ta chính là sự sám hối ăn năn ? Mọi tội lỗi đều được tha, trừ một thứ tội “Không nhìn nhận tội của mình” ( thậm chí còn tìm cách đổ tội cho người khác ). Tội lỗi của Giáo Dân thì đã quá nhiều và dường như ai cũng đã biết, nhất là hàng Giáo Sĩ ( Giáo Dân đương nhiên phải xưng tội với Giáo Sĩ ). Vậy phần còn lại của Hội Thánh Việt Nam ( hàng Giáo Phẩm và Giáo Sĩ ) có tội gì không ? Không có tội gì sao phải xin lỗi, phải thống hối ( Lễ khai mạc Năm Thánh 2010 ) ? Hay chỉ là nói theo thủ tục xã giao ? Không nhận ra tội của mình, làm sao sám hối ?
Các Thánh đều là những người luôn xác tín, công khai nhìn nhận mình là kẻ tội lỗi, thậm chí như Têrêsa Hài Đồng Giêsu còn cho rằng mình là người tội lỗi nhất trong thế gian. Các Thánh thì luôn luôn và mau chóng nhận ra lỗi lầm của các Ngài, còn chúng ta thì… ngược lại ! Thánh Augustinô cầu nguyện mỗi ngày “Xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con.” Nhận biết Chúa mới chỉ là một chiều, nhưng còn chiều thứ hai thường bị quên sót: Nhận biết chính bản thân mình. Không nhận biết cái “dở” của mình thì làm sao có thể cầu tiến ? Nhất là giúp nhau tiến bộ hơn mãi ? Chắc chắn phải cậy dựa vào Chúa mới mong đạt được kết quả.
Thực tế cho thấy: anh chị em nhắc lỗi nhau đã là khó, bề trên nhắc nhở bề dưới tuy là việc bổn phận, trách nhiệm; nhưng lại là một bổn phận có khi rất khó khăn, còn bề dưới mà góp ý với bề trên thì khó biết bao, và có thể bị coi là  “thế lực thù địch” ngay lập tức ! Góp ý xây dựng cũng có thể là “phản động”. Góp ý đến mười lần hay hơn nữa cũng chẳng có ai “hồi báo cám ơn” !
Là lãnh đạo, cho dù chỉ là một gia đình hay một cộng đoàn nhỏ, khi bị chống đối, có mấy khi chúng ta dám đặt vấn đề xem mình có gì sai quấy, lầm lẫn hay thiếu sót chăng ? Hay sẽ tự ru ngủ mình “đang được trở nên giống Chúa Kitô” ? Cứ giả thiết rằng con cái chúng ta hư hỏng thật đi, thì nếu chúng nó càng hư hỏng, chúng ta lại càng phải yêu thương nhiều hơn chứ sao lại gay gắt, lên án, thậm chí nhục mạ… “chúc dữ” cho chúng ? Khác biệt giữa Chúa và chúng ta là ở chỗ này.
Cha ông chúng ta cũng đã có câu nói rất hay: “Nước mắt chảy xuôi” ! Vâng, khi nước mắt chảy ngược vào trong, đó là dấu hiệu của sự mù loà đang đến rất gần rồi !
Là thành viên trong một cộng đoàn, ai cũng có thể buồn phiền và không hài lòng về người lãnh đạo của mình trong một vài việc cụ thể, ở một giai đoạn nhất định nào đó. Nhưng xin đừng quên điều quan trọng hơn trong đời sống của Hội Thánh và điều này có sức nâng đỡ niềm tin yếu đuối của chúng ta rất nhiều: “Thiên Chúa là Đấng có thể, và chỉ Ngài mới có thể sử dụng những phương tiện tầm thường nhất để hoàn tất những công trình lớn lao do chính Ngài đã dự định.”
Nói cách khác, trong mọi hoàn cảnh, chúng ta không nên thất vọng, vì cho dù bề trên có sai, thì chính Thiên Chúa sẽ bù đắp những thiệt thòi cho chúng ta. Ai sai, người đó sẽ chịu trách nhiệm với Chúa. Không ai có thể cản trở công việc của Thiên Chúa. Tất cả chúng ta đều chỉ là phương tiện trong bàn tay sáng tạo kỳ diệu của Thiên Chúa. Phương tiện càng tầm thường, càng tôn vinh tay nghề của ông Chủ !
Giáo Hội thánh thiện nhưng bao gồm cả tội nhân. Thánh nhân chính là các tội nhân đã sám hối và được tha thứ: Mỗi vị Thánh đều có một quá khứ và mỗi tội nhân đều có một tương lai. Xem ra sám hối và tha thứ là điều kiện ắt có và đủ. Khó khăn đang nằm ở chỗ: bao lâu con người chưa nhận ra tội lỗi của mình thì không thể có chuyện sám hối ăn năn.
Nói cách khác, Giáo Hội bao gồm những tâm hồn đang quyết tâm sám hối từng ngày, từng giờ ! Càng xét mình, càng thấy mình tội lỗi ! Càng thấy mình tội lỗi, càng dễ tha thứ cho anh chị em, càng thương xót các người tội lỗi, càng muốn sống khiêm tốn hơn nữa và rất dễ thông cảm với những sai lỗi của người khác…
“Càng xét mình, càng thấy mình tội lỗi”. Hãy can đảm xét mình ! Không cần phải xét người, vì đó không phải trách nhiệm của chúng ta. Sám hối không phải là một thủ tục mà đích thực là một nhu cầu, một điều kiện. Không có sám hối, Đức Kitô có chết đi sống lại thêm bao nhiêu lần cũng vô ích !
Nguyên nhân của việc không xét mình sám hối là vì xa lạ hay dửng dưng với Lời Chúa. Lời Chúa mới thực là Bản Xét Mình đầy đủ nhất cho hết mọi thành phần trong Hội Thánh. Đừng quanh co, đừng lý luận để tự biện hộ hoặc ru ngủ chính mình. Ngay cả anh chị em ngoài Công Giáo cũng biết: Đạo Chúa là đạo Yêu Thương. Việc sống đạo Yêu Thương lại không đơn giản. Thương người đã là khó, làm cho người ta thương mình càng khó hơn, và làm cho mọi người thương nhau càng khó gấp bội !
Một lời nói ( chữ viết ) khiến cho mọi người thương nhau, lời đó sẽ được Thiên Chúa chúc phúc; và ngược lại, một lời nói ( chữ viết ) làm cho người ta chán ghét nhau, lời đó sẽ bị… ! Ai không sai lỗi trong lời nói ( chữ viết ), đó là người hoàn hảo, vì đã có thể kiềm hãm được toàn thân ( Gc 3, 2 ). Lời của một Giáo Dân, thường thì chỉ ảnh hưởng trong gia đình năm bảy người; Lời của một Linh Mục, thì ảnh hưởng trên một vài ngàn người; Còn lời của một Giám Mục thì ảnh hưởng trên hàng triệu người xa gần. Dĩ nhiên dù là ảnh hưởng xấu hay tốt thì mức độ và phạm vi đều có thể là quan trọng.
“Tôi làm cho người ta yêu mến tôi, để tôi dẫn dắt họ đến yêu mến Chúa.” Đơn sơ và chính xác biết bao nhiêu so với trăm ngàn “lý sự” của trần gian ? Đó cũng chính là bí quyết giáo dục của Thánh Gioan Bosco đấy ! Khi người ta ghét tôi, chắc chắn họ cũng sẽ ghét Chúa thôi. Tôi có trách nhiệm gì khi người ta ghét tôi không ? Nếu vì Chúa mà người ta ghét tôi thì phúc cho tôi biết chừng nào ? Nhưng được mấy người như thế ? Hay tất cả chỉ vì chính tôi mà người ta ghét lây cả Chúa chăng ?
“Lạy Thiên Chúa, tế phẩm dâng Ngài là tâm thần tan nát, một tấm lòng tan nát giày vò, Ngài sẽ chẳng khinh chê”. ( Tv 51, 19 )
Vì cuộc khổ nạn đau thương của Chúa Giêsu Kitô, xin Cha thương xót Quê Hương, Giáo Hội Việt Nam chúng con và toàn Thế Giới...

Lang thang tren net.

Saturday, July 3, 2010

Dấu Chân Trên Cát.

 Dấu Chân Trên Cát.

 Một đêm kia tôi mơ thấy tôi đang đi dạo
bước dọc theo bờ biển cùng với Chúa
và trên trời phản chiếu những hình ảnh cuộc đời tôi
Mỗi hình ảnh tôi đều chú ý tới những dấu chân trên cát
Ðôi lúc in rõ hai cặp dấu chân
có những lúc chỉ có một cặp mà thôi
Ðiều này làm tôi khó chịu vì tôi thấy
trong những lúc cuộc đời tôi xuống dốc
bởi những khổ đau thất vọng và lo lắng
Tôi nhìn thấy chỉ có một cặp dấu chân
Bởi vậy tôi nói với Chúa "Lạy Chúa, Ngài đã hứa với con
rằng nếu con đi theo Ngài
thì Ngài sẽ đi bên con luôn mãi
Nhưng con cảm thấy trong những lúc khó khăn nhất
của cuộc đời con, thì chỉ có
một cặp dấu chân in trên cát mà thôi.
Tại sao trong những lúc con cần Chúa nhất
Ngài lại không ở đây với con?"
Chúa trả lời,
"Những lúc con nhìn thấy chỉ có một cặp dấu chân
đó chính là những lúc Ta đang mang con trên vai."


Life is too short to wake up with regrets… So love the people who treat you right.. Forget about the ones who don't. Believe everything happens for a reason. If you get a second chance, grab it with both hands. If it changes your life, let it. Nobody said life would be easy, they just promised it would be worth it.

Friends are like balloons; once you let them go, you might not get them back. Sometimes we get so busy with our own lives and problems that we may not even notice that we've let them fly away. Sometimes we are so caught up in who's right and who's wrong that we forget what's right and wrong.. Sometimes we just don't realize what real friendship means until it is too late. I don't want to let that happen so I'm going to tie you to my heart so I never lose you.


Thank you for being in my life!!!

FOOTPRINTS

One night I dreamed I was walking
Along the beach with the Lord.
Many scenes from my life flashed across the sky.
In each scene I noticed footprints in the sand.
Sometimes there were two sets of footprints.
Other times there were one set of footprints.
This bothered me because I noticed that
During the low periods of my life when I was
Suffering from anguish, sorrow, or defeat,
I could see only one set of footprints,
So I said to the Lord, "You promised me,
Lord, that if I followed You,
You would walk with me always.
But I noticed that during the most trying periods
Of my life there have only been
One set of prints in the sand.
Why, When I have needed You most,
You have not been there for me?"
The Lord replied,
"The times when you have seen only one set of footprints
Is when I carried you."

By Mary Stevenson
(Born 11/08/1922 Died 1/06/1999)

Chúa Nhật XIV Thường Niên Năm C

Chúa Nhật XIV Thường Niên Năm C
CHỌN MỘT MỤC TIÊU XỨNG ĐÁNG CHO ĐỜI MÌNH
(Is 66,10-14c ; Gl 6,14-18 ; Lc 10,1-12.17-20)
Có ai trong chúng ta không làm việc gì mà không mong chờ một kết quả: người học sinh dùi mài kinh sử để có tên trên bảng vàng và hy vọng tìm được một chỗ làm tốt; người phụ nữ gồng gánh bán mua để hy vọng có được chút tiền mua thêm bánh trái làm quà cho con ; người đàn ông chạy xe ôm cả ngày để hy vọng cuối ngày có đủ tiền trao cho vợ lo cơm nước; những người làm ăn khấm khá hơn ngược xuôi vất vả với hy vọng sắm sửa áo quần và cải thiện vật dụng trong nhà…
Chuyện minh họa

a/ Đi giảng

Ngày kia, thánh Phanxicô Assadi nói với một thày dòng: "Nào chúng ta cùng đi phố và giảng đạo. " Hai người ra đi, hết con đường trước mặt, quẹo sang đường khác rồi về nhà. Thày dòng thắc mắc hỏi: "Con nghe ngài nói là mình đi phố và giảng đạo cơ mà!" Thánh Phanxicô đáp: "Chúng ta đã giảng đạo rồi đó! Khi chúng ta đi đường. Mọi người nhìn ta, thấy phong cách của ta, nghĩ về đời sống của ta và rồi họ sẽ thắc mắc về nguồn sống nơi linh hồn của họ. Như thế chẳng phải là ta đã giảng đạo cho họ rồi sao?"

Câu nói của thánh nhân quả là khôn ngoan. Người Kitô-hữu không có cách truyền giáo nào hay hơn là chính đời sống chứng tá của họ.

b/ Khuôn vàng thước ngọc

"Hãy nói về Chúa cho những người quanh bạn nghe; và hãy nói về những người quanh bạn cho Chúa nghe".
1)Mục tiêu của con người khi nỗ lực làm việc
Ngay những người Do Thái mất cửa mất nhà, mất cả quê hương để đến sinh sống tại Babilon xa lạ từ mấy trăm năm trước Chúa Giáng Sinh và mấy ngàn năm trước chúng ta, nghĩa là ngay khi còn đang ngụp lặn trong khổ cực và thất vọng, cũng không thể không nuôi hy vọng về ngày hồi hương : ngày ấy không những họ sẽ ngừng khóc để nói nói cười cười, mà còn được no cơm ấm áo (trẻ con được bú no nê và được mẹ bế ẵm nâng niu) ; ngày ấy họ sẽ không còn chứng kiến cảnh túng quẫn vô sản, mà ngược lại, của cải cứ lớp lớp tuồn về ; ngày ấy sẽ không còn những thanh thiếu niên gầy giơ xương mà là những cơ thể tươi tốt mạnh khỏe.
“Hãy cùng Giêrusalem khấp khởi mừng,
Hỡi tất cả những người đã than khóc thành đô,
Để được thành đô cho hưởng trọn nguồn an ủi,

Được thỏa thích nếm mùi sung mãn vinh quang,
Như trẻ thơ bú no bầu sữa mẹ….
Này Ta tuôn đổ xuống Thành Đô
Ơn thái bình tựa dòng sông Cả,
Và Ta khiến của cải chư dân
Chảy về tràn lan như thác vỡ bờ
Các ngươi sẽ được nuôi bằng sữa mẹ
Được bồng ẵm bên hông, nâng niu trên đầu gối
Như mẹ hiền an ủi con thơ
Ta sẽ an ủi các ngươi như vậy
Tại Giêrusalem, các ngươi sẽ được an ủi vỗ về” (Is 66,10-13)
2)Từ mục tiêu mới đến thái độ sống của chúng ta hôm nay
Tuy nhiên, hy vọng mà thánh Phaolô theo đuổi và chia sẻ với giáo dân Galát không chỉ có thế. Cái làm Phaolô kiên trì chờ đợi và bền bỉ đấu tranh chính là được trở thành một con người mới, một thụ tạo mới. Và để được trở nên như thế, Phaolô sẵn sàng đánh đổi tất cả, thậm chí sẵn sàng bị đóng đinh cùng với Đức Kitô – nghĩa là chấp nhận một cái chết đau đớn nhất và nhục nhã nhất. “Cắt bì hay không cắt bì chẳng là gì cả, điều quan trọng là trở nên một thụ tạo mới” (Gl 6,15).
Trở thành tạo vật mới là gì mà Phaolô tỏ ra tha thiết đến thế ? Các tông đồ và Bảy Mươi Hai môn đệ thời Đức Giêsu cũng hớn hở sung sướng trước sự kiện này. Nhưng các ngài diễn tả điều ấy một cách khác : đó là được hưởng sự bình an của Chúa, được chia sẻ quyền năng của Thiên Chúa để tiêu diệt ma quỷ và ác thần, đó là được ghi tên trên trời hay được đăng ký sống trong nhà Chúa mãi mãi. Cũng chính vì viễn tượng tuyệt đẹp ấy, các ngài không còn tỏ ra thiết tha điều gì trên đời. Chẳng hạn như không thiết tha với của cải – dù là để phòng thân : “Không mang theo túi tiền, bao bị, giày dép”. Cũng chẳng thiết tha với những quan hệ con người : “Đừng chào hỏi ai dọc đường”. “Người ta dọn ra bàn món gì thì ăn món đó”. “Hãy ở lại nhà người ấy, và người ta cho ăn uống thức gì thì anh em dùng thức đó”. Cũng không tha thiết với thành công : “Vào bất cứ thành nào mà được người ta tiếp đón thì cứ ăn những gì người ta dọn cho anh em […] Nhưng vào bất cứ thành nào người ta không tiếp đón, thì anh em ra các quảng trường mà nói : “Ngay cả bụi trong thành các ông dính chân chúng tôi, chúng tôi cũng xin giũ trả lại các ông”.
Nói cách khác, điều kiện sống đơn sơ và giản dị, thái độ làm việc hết sức vô cầu và siêu thoát của các môn đệ ngày xưa và của các kitô hữu hôm nay không phải chỉ xuất phát từ tình hình khẩn cấp của việc truyền giáo : “Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít”, hành trang càng nhẹ và ưu tư càng ít thì càng dễ dấn thân trọn vẹn vào việc “gặt hái các linh hồn”, mà sâu hơn đó là do các môn đệ Chúa Ki tô đã cảm nghiệm thế nào là được Thiên Chúa đổi mới, thế nào là làm tạo vật mới, thế nào là được ghi tên trên trời… Những sự thật này đẹp đẽ tới mức không còn gì trên thế gian này có thể sánh bằng, và vì thế, tương tự như người đã ăn ngon thì không muốn kham khổ nữa, người ta sẵn sàng bỏ tất cả, từ tư trang vốn liếng đến tất cả các mối quan hệ vừa thắt chặt.
Nếu vậy, sở dĩ hôm nay người ta khó siêu thoát với tiền bạc, danh vọng và tình cảm, ngay cả trong khi làm việc tông đồ hay truyền giáo, trong lúc cầu nguyện hay giảng đạo, là bởi người ta chưa ít là một lần nếm được cái hay cái đẹp của thân phận một thụ tạo mới đã được Chúa tái sinh trong bí tích Rửa Tôi, thanh luyện và cải thiện trong các bí tích Hòa Giải và Thánh Thể, trong lời Chúa và trong ân sủng. Phải cảm nếm được như Phaolô đã tâm sự với giáo hữu Galát, chúng ta mới hiểu được tại sao ngài hào hiệp và quảng đại như thế, dứt khoát và dũng cảm như thế, không chỉ trong các chuyến truyền giáo to tát mà cả trong các quyết định hằng ngày của mình.
Đến đây, chúng ta hãy cầu xin Chúa không phải ban cho chúng ta của cải đầy nhà, công trạng đầy tay, mà quan trọng hơn, xin Ngài ban cho chúng ta được một lần biết thế nào là được trở thành tạo vật mới của Chúa, thế nào là bình an của Chúa, thế nào là được chia sẻ quyền năng của Chúa trên sự dữ, thế nào là được ghi tên trên trời hay được đăng ký trong nhà Chúa. Mà chẳng cần chờ đợi xa xôi gì : lát nữa đây, chúng ta được mời gọi kết hợp với Chúa qua Mình Máu Ngài ; hãy tiến lên lãnh nhận và tin tưởng rằng chúng ta sẽ nhờ đó mà dần dần cảm nhận niềm vui của các thụ tạo mới.
 
Nguồn tin từ  Tổng Giáo phận Hà Nội.

 Nhà Chung Số 7

Truyện : Thi sĩ R. Tagore.

          R. Tagore là một thi sĩ nổi tiếng của Ấn độ và cả Đông phương nữa. Ông có khiếu làm thơ ngay lúc còn thơ ấu.
          Một hôm, cậu bé Tagore làm một bài thơ và đưa lên cho cha xem. Ông thân sinh lắc đầu chê :
          - Thơ mày là thơ thẩn !
          Tagore mới nghĩ ra một mưu : cậu đem bài thơ của mình mới làm, chép lại thật kỹ và chua xuất xứ là trích sao trong một cuốn thơ cổ. Cậu ta lại không quên đề tên cuốn thơ cổ ấy cẩn thận.
          Lần này, ông thân sinh đọc xong, mắt sáng rực lên, vỗ đùi khen :”Tuyệt, tuyệt”. Rồi đem khoe tíu tít với đứa con trai lớn của ông, hiện đang làm chủ nhiệm một tờ báo văn học. Ông nói :
          - Ba đã đọc rất nhiều thơ cổ, nhưng chưa thấy bài nào hay như bài này.
          Ông con trai chủ nhiệm đọc xong cũng hết mình đồng ý, xoa tay khen là hay đáo để, và muốn trích đăng lên  mặt tờ báo văn học của ông.
          Bấy giờ ông anh cũng như ông thân sinh đòi Tagore phải đưa cuốn thơ cổ kia ra đối chiếu chứng minh và cũng để dễ bề chua xuất xứ trong khi đăng.
          Đến đây câu truyện mới vỡ lở ra. Có ai ngờ trên đây là một cuộc dàn cảnh bịa đặt của thằng bé Tagore ! Ông thân sinh giận sôi máu lên, nhưng rồi cũng phải nhìn con với cặp mắt thán phục và hối hận cho thái độ mâu thuẫn của mình xưa nay.
                   (Vũ minh Nghiễm, Sống sống, 1971, tr 333-335)

          Qua kinh nghiệm hằng ngày, chúng ta phải công nhận rằng Thành kiến là một căn bệnh phổ quát chung cho mọi người. Thành kiến là chứng bệnh di truyền kinh niên bất trị của loài nguời, không ai thoát khỏi. Chúng ta hằng to tiếng lên án cái lối sống phô trương bên ngoài. Nhưng trên thực tế, chúng ta lại hằng căn cứ vào những cái bề ngoài mà đánh giá thiên hạ.

          Cùng một câu văn, một lời nói, một việc làm, mà do người này thì có giá trị, do người kia thì vô duyên, do người này thì hay đáo để, do người kia thì dở ẹc ra. Người có danh tiếng thì lời nói việc làm nào cũng được coi như vàng ngọc. Người vô danh tiểu tốt thì lời có đẹp như trăng sao, việc có hay như thần thánh, cũng bị thành kiến dìm xuống đến tận bùn đen. Vì thế, Đức Giêsu đã nói:”Không tiên tri nào lại được trọng đãi nơi quê hương mình (Ga 4,44).

          Thành kiến làm cho bụt nhà không thiêng, thích những cái lạ; thích gì thì phóng đại tô mầu, ghét thì cũng thế. Nhiều khi lý luận một chiều sai lệch, cái vô lý ngớ ngẩn cũng cho là hay là đẹp, hoặc không hiểu gì cũng cho là hay. Sống hoàn toàn theo dư luận, theo cách của người đời, không dám vượt trên dư luận sai lạc, vượt trên những phán đoán thiên lệch. Ví dụ các bà tin theo thầy bói thì cái gì thầy nói ra cũng đúng, cũng hay, coi như lời sấm, như thánh phán :

                             Số cô không giầu thì nghèo,
                             Ba mươi Tết có thịt heo trong nhà.
                             Số cô có mẹ có cha,
                             Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông.
                             Số cô có vợ có chồng,
                             Sinh con đầu lòng chẳng gái thì trai.

          Các bà các cô sẽ phải thốt lên :”Thánh phán.  Tuyệt ! Tuyệt” !